Cập nhật hệ số CAR (SHB) - số liệu 6/2024 mới nhất

Ngân hàng trong hệ thống đều phải duy trì một tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo khung hoạt động của Basel II. Tại Việt Nam, tỷ lệ này được NHNN quy định tại thông tư 41/2016/NHNN tối thiểu là 8%.
Việc đảm bảo duy trì CAR trên 8% là điều hiển nhiên ở hoạt động ngân hàng. SHB cho thấy họ chú trọng vào việc quản trị CAR như thế nào khi mà con số % này liên tục gia tăng từ mức hơn 10% giai đoạn 2020 đến hiện tại.


SHB, trong báo cáo công bố về tỷ lệ an toàn vốn kỳ 6/2024, mức hệ số này được báo cáo ở mức 12.68%. Với tổng mức vốn tự có hợp nhất được báo cáo là hơn 74 nghìn tỷ, và tổng giá trị tài sản có rủi ro là hơn 589 nghìn tỷ. Trong đó: Vốn cấp 1 sau giảm trừ là hơn 55 nghìn tỷ, Vốn cấp 2 sau giảm trừ là hơn 18 nghìn tỷ đồng. Cụ thể được liệt kê dưới bảng sau:

Về phần vốn tự có của ngân hàng SHB, tỷ trọng cao đóng góp vào tổng vốn tự có vẫn là nguồn vốn (T1) đến từ nguồn Lợi nhuận giữ lại và Vốn điều điều lệ của ngân hàng. Phần vốn (T2) không chiếm phần quá lớn, chủ yếu là đóng góp của 80% dự phòng chung và một ít từ việc phát hành giấy tờ có giá, trái phiếu có kỳ hạn gốc trên 5 năm.

Xu hướng vốn (T1) của SHB qua các thời kỳ đánh giá đều cho thấy sự tăng trưởng dương. Sự tăng trưởng này không phải phần lớn đến từ việc tăng tưởng nguồn lợi nhuận giữ lại mà đến từ việc phát hành ra công chúng (gia tăng giá trị vốn điều lệ của ngân hàng). Trong đó biến động tăng mạnh nhất là ở giai đoạn 2021 với mức tăng trưởng hơn 30% về vốn (T1). Lý giải cho chuyện này cũng khá liên kết vì lúc bấy giờ thị trường chứng khoán tăng mạnh và tương đối là dể dàng trong việc mua bán. Việc ngân hàng tận dụng thời gian vàng này để gia tăng phát hành tăng vốn là điều hợp lý, lúc này thanh khoản thị trường cao sẽ giúp SHB thuận tiện chào bán công khai.
screenshot_1738680322
Sau đây là giá trị tuyệt đối về tăng trưởng vốn cấp 1 của SHB xuyên suốt giai đoạn từ 2020 – 2024:


Về phân loại tài sản đánh trọng số rủi ro gồm 2 loại chính: Tài sản có rủi ro tín dụng và Tài sản có rủi ro tín dụng đối tác. Bóc tách giá trị tài sản có rủi ro như sau:
screenshot_1738680340
Trong Tài sản có rủi ro tín dụng (theo chủ thể), các Khoản phải đòi doanh nghiệp là chiếm trọng số cao nhất và xếp theo sau là Khoản phải đòi bán lẻ. Như đã được chú thích, phần lớn các khoản phải đòi và cho vay này là khoản nợ có liên quan đến thế chấp bằng Bất động sản, thế chấp bằng nhà ở hình thành
từ vốn vay (khách hàng cá nhân).
screenshot_1738680350
Đi sâu vào từng lĩnh vực ngành kinh tế để thấy rõ hơn bức tranh rủi ro của SHB hiện tại đang tập trung vào đâu. Tại số dư nợ báo cáo tháng 6/2024, ba ngành (khách hàng doanh nghiệp) chiếm trọng số rủi ro cao nhất gọi tên ngành Bán buôn, bán lẽ, oto, motor, xe động cơ, Bất động sản và Công nghiệp chế biến. Cụ thể giá trị tuyệt đối rủi ro của các ngành nghề như sau
screenshot_1738680367
Nhìn vào tỷ trọng rủi ro của 3 ngành trên so với tổng giá trị Tổ chức kinh tế đều chiếm trên 20%, cụ thể 21.57% đối với Bán buôn, bán lẽ, oto, motor, xe. 22.22% đối với Công nghiệp chế biến và 20.19% ứng với ngành Bất động sản.

Tỷ trọng rủi ro của ngành Bán buôn bán lẽ cao là do số dư nợ trên bảng cân đối đạt mức cao, thực chất trọng số rủi ro của ngành chỉ đạt mức bình quân hơn 71%. Đối tác trong lĩnh vực Bán buôn, bán lẽ, oto, motor, xe động cơ chủ yếu là các khoản vay mua xe tại Kim Long Motor. Hiện tại, SHB vẫn đang có những chương trình ưu đãi với các khoản vay liên quan đến Kim Long Motor, tài trợ lên đến 85% giá trị xe khi sử dụng dịch vụ. Ngược lại, ngành Công nghiệp chế biến đánh trọng số rủi ro cao nhất lên đến hơn 200% mặc dù số dư tuyệt đối chỉ dao động quanh mốc hơn 46 nghìn tỷ. Ngành Bất động sản đạt mức trọng số rủi ro bình quân 116% với tổng dư nợ cho vay lĩnh vực này tại tháng 6/2024 đạt hơn 74 nghìn tỷ.
Tình hình tài sản có rủi ro của SHB qua các năm đều được quan sát với con số tăng trưởng dương. Con số tuyệt đối đã gia tăng hơn 540 nghìn tỷ đồng từ mức hơn 330 nghìn tỷ trong quá khứ (tài sản có rủi ro), và hơn 580 nghìn tỷ đồng so với mức 350 nghìn tỷ đồng ở 2020 (tổng giá trị tài sản rủi ro có tính đến vốn yêu cầu cho rủi ro hoạt động và thị trường).

Sự gia tăng trong tài sản có rủi ro phần lớn là sự đóng góp của ngành Bán buôn bán lẽ xe oto, motor. Với số dư nợ gia tăng đáng kể qua hàng năm. Ngành Bất Động sản giai đoạn trước 2023 chưa thật sự có nhiều rủi ro trên cân đối của SHB với số dư giải ngân không nhiều, do lúc bấy giờ SHB vẫn đang tập trung vào lĩnh vực Xây dựng là chủ đạo. Tuy nhiên sau giai đoạn 2023, rủi ro đã gia tăng ở lĩnh vực này khi mà số dư nợ cho ngành này cũng đã tăng đáng kể. Sự khó khăn của BĐS trong 2023 kèm theo là vấn đề liên quan đến TPDN ngành BĐS càng làm cho tình hình rủi ro ngành này trở nên mịt mù hơn. Hiện tại rủi ro ngành BĐS vẫn đang ở mức cao trên cân đối và theo góc nhìn cá nhân thì vấn đề này vẫn sẽ tiếp diễn ở giai đoạn 2025. Cuối cùng, ngành Công nghiệp chế biến chế tạo trước đó 1 năm không thực sự ghi nhận nhiều rủi ro do số dư nợ rất ít. Nhưng sau khi SHB thực hiện theo chỉ đạo Chính phủ về việc bổ trợ cho vay lĩnh vực công nghiệp chế tạo thì số dư đã gia tăng mạnh, kèm theo là hệ số rủi ro ngành sẵn cao nên chỉ trong vòng 6 tháng, con số chịu rủi ro đã lớn dần và chiếm tỷ trọng tương đối trên bảng cân đối.

1 Likes

chi tiết thật sự luôn ạ

1 Likes

dạ cũng là số liệu đã báo cáo rồi đi thu thập lại anh ạ

1 Likes