Giá dầu tăng: mối lo mới của các ngân hàng trung ương

,

Giá dầu tăng: mối lo mới của các ngân hàng trung ương

Nhiệm vụ của các Ngân hàng Trung ương Châu Âu thậm chí còn trở nên phức tạp hơn khi giá dầu tăng cao làm tăng thêm tình thế khó khăn trong việc làm thế nào để cân bằng các nền kinh tế đang chậm lại, tác động chậm trễ của việc tăng lãi suất cho đến nay và lạm phát vẫn quá cao.

Các ngân hàng trung ương đang phải suy nghĩ về việc giá dầu tăng có ý nghĩa gì đối với các quyết định lãi suất trong tương lai

Giá dầu tăng đã trở thành mối lo ngại mới đối với các ngân hàng trung ương, làm trầm trọng thêm bộ ba bất khả thi hiện nay: làm thế nào để cân bằng nền kinh tế đang chậm lại, lạm phát vẫn ở mức quá cao và tác động chậm trễ của việc tăng lãi suất chưa từng có. Điều thú vị là câu trả lời cho câu hỏi hóc búa này lại khác nhau giữa các ngân hàng trung ương lớn.

Nhìn về phía trước, đợt tăng giá dầu gần đây sẽ khiến mọi chuyện càng trở nên phức tạp hơn vì nó vừa làm trầm trọng thêm tình trạng suy thoái kinh tế vừa đẩy lạm phát lên cao (hoặc ít nhất là làm giảm xu hướng giảm phát). Cân bằng giữa tăng trưởng và lạm phát sẽ càng trở nên khó khăn hơn và các quyết định về lãi suất trong tương lai sẽ không chỉ được xác định bởi hai biến số này mà còn bởi độ tin cậy của các ngân hàng trung ương.

Về vấn đề này, các ngân hàng trung ương lo ngại nhất về độ tin cậy của họ và tác động lâu dài đến kỳ vọng lạm phát có thể sẽ tiếp tục tăng lãi suất.

Giá dầu có thể tiếp tục tăng nhưng không bền vững trong dài hạn

Giá dầu hiện tăng hơn 25% trong quý này và nhanh chóng đạt 95 USD/thùng vào tuần trước. Nhà phân tích hàng hóa Warren Patterson kỳ vọng giá dầu sẽ vượt trên 100 USD/thùng trong thời gian tới do việc cắt giảm nguồn cung của các nước OPEC+ nhiều hơn bù đắp cho nhu cầu yếu hơn do nền kinh tế toàn cầu suy thoái.Tuy nhiên, ông không cho rằng giá dầu sẽ duy trì ở mức trên 100 USD/thùng trong thời gian dài vì nhu cầu yếu hơn và áp lực chính trị nhằm tăng nguồn cung sẽ giúp đưa giá dầu trở lại mức trên 90 USD/thùng một chút.

Đây có phải là làn sóng lạm phát thứ hai mà chúng ta tưởng sẽ không bao giờ đến?

Tại khu vực đồng euro, có ba thời kỳ lạm phát cao nhất vào những năm 1970. Lần đầu tiên là vào năm 1974, khi lạm phát toàn phần lên tới gần 14%; lần thứ hai vào năm 1977 với lạm phát toàn phần trên 10%, và sau đó một lần nữa vào cuối năm 1979 và đầu năm 1980 với lạm phát toàn phần trở lại mức hai con số.

Vào thời điểm đó, tăng trưởng tiền lương thực tế vẫn dương ngay cả trong thời kỳ khủng hoảng dầu mỏ lên đến đỉnh điểm, khiến lạm phát duy trì ở mức trên 7% trong hơn một thập kỷ (1972-84). Thật vậy, những quốc gia có mức tăng lương thực tế cao hơn trong giai đoạn này cũng có mức lạm phát cao nhất trong giai đoạn này (xem biểu đồ bên dưới).

Sự gia tăng lạm phát hiện nay khác ở chỗ tốc độ tăng lương thực tế nhanh chóng chuyển sang mức âm, khiến nhu cầu tiêu dùng chậm lại một cách đáng kể. Điều này làm cho khả năng lạm phát tăng vọt lần thứ hai kéo dài sẽ nhỏ hơn nhiều. Với lạm phát hiện đang có xu hướng giảm và tăng trưởng tiền lương ổn định trên 4%, tăng trưởng tiền lương thực tế sẽ sớm chuyển biến tích cực trở lại, nhưng tôi không kỳ vọng nó sẽ xóa được khoản lỗ trong hai năm qua.

Đồng thời, điều quan trọng cần lưu ý là sự hỗ trợ của chính phủ và tăng trưởng việc làm đã hạn chế đáng kể tổn thất thu nhập khả dụng.

Vào những năm 70, các quốc gia có mức tăng lương thực tế cao hơn cũng có lạm phát cao hơn

Lạm phát được đo lường bằng mức tăng trưởng trung bình hàng năm của chỉ số CPI quốc gia và mức tăng trưởng tiền lương thực tế là mức tăng trưởng lương thực tế trung bình hàng năm trên mỗi nhân viên, với tiêu dùng tư nhân là chỉ số giảm phát.

Giá dầu hiện tại làm thay đổi dự báo lạm phát như thế nào?

Mặc dù đây không phải là những năm 1970 nhưng kỳ vọng về tình trạng giảm phát tiếp theo sẽ bị ảnh hưởng bởi giá dầu cao hơn. Điều này có thể dẫn đến lạm phát giảm chậm hơn xuống 2%. Do kỳ vọng của chúng tôi về giá dầu sẽ bao gồm cả việc giảm trở lại vào nửa đầu năm 2024, nên tác động lên dự báo của chúng tôi là khá vừa phải. Thêm vào đó, mức giảm giá năng lượng nhỏ hơn đã thành hiện thực trong năm nay so với kỳ vọng (điều này tác động đến các hiệu ứng cơ bản của năm tới).

Quả thực, câu hỏi lớn là liệu giá dầu cao hơn có một lần nữa dẫn đến hiệu ứng vòng hai trên diện rộng như chúng ta đã thấy năm ngoái hay không. Nhiều nguyên nhân gây ra lạm phát cơ bản tại thời điểm này vẫn là do giảm phát, trong đó các doanh nghiệp sản xuất vẫn cho thấy chi phí đầu vào đang giảm mặc dù lương và giá năng lượng cao hơn. Và khi các đơn đặt hàng mới đang suy yếu, tình trạng giảm phát đối với hàng công nghiệp phi năng lượng sẽ trở thành hiện thực vào cuối năm. Đối với dịch vụ, nhu cầu yếu hơn cũng góp phần làm giảm lạm phát mặc dù chi phí tiền lương cao hơn, theo PMI tháng 9. Kỳ vọng của chúng tôi là lạm phát cơ bản sẽ chậm lại đáng kể từ mức 5,3% trong tháng 8 cho đến cuối năm.

Tuy nhiên, nếu thị trường lao động vẫn thắt chặt như hiện nay và nền kinh tế phục hồi trở lại một chút vào đầu năm 2024, thì có nguy cơ chi phí năng lượng đầu vào cao hơn cũng sẽ đẩy lạm phát cơ bản lên trên 2%. Rất nhiều điều phụ thuộc vào sức mạnh của nền kinh tế trong những tháng tới, điều này làm tăng thêm sự không chắc chắn cho ECB.

Áp lực buộc ECB phải tiếp tục tăng lãi suất

Trước đại dịch, hầu hết các ngân hàng trung ương có lẽ đã bỏ qua việc giá dầu tăng vọt. Một số thậm chí còn coi giá dầu tăng cuối cùng là giảm phát, làm suy yếu sức mua và khả năng cạnh tranh công nghiệp. Tuy nhiên, chúng ta không còn ở thời kỳ tiền đại dịch nữa mà là thời kỳ lạm phát quay trở lại. ECB đã nhấn mạnh trong những tháng gần đây rằng làm quá ít sẽ tốn kém hơn là làm quá nhiều về mặt lãi suất.

Đối với ECB, các dự báo gần đây của nhân viên dựa trên giả định kỹ thuật về giá dầu trung bình là 82 USD/thùng vào năm 2024. Nếu giá dầu đạt mức trung bình 95 USD/thùng vào năm tới, điều này có thể sẽ đẩy dự báo lạm phát của ECB lên mức cao hơn. 3,3% cho năm 2024 (từ 3,2%) và quan trọng hơn là lên 2,4% vào năm 2025 (từ 2,1%). Do đó, việc quay trở lại mức 2% sẽ bị trì hoãn đến năm 2026.

Việc trì hoãn quay trở lại mức 2% sẽ không phải là lý do duy nhất để ECB xem xét việc tăng lãi suất thêm. Mặc dù ECB vẫn thừa nhận bản chất giảm phát của một cú sốc giá dầu mới, nhưng nguy cơ cú sốc giá dầu mới này có thể dẫn đến việc giảm kỳ vọng lạm phát chắc chắn sẽ làm tăng thêm lo ngại của ECB, khiến không chỉ tăng thêm lãi suất. nhiều khả năng hơn, nhưng đồng thời chúng cũng ở mức cao hơn trong thời gian dài hơn.

Fb: Vu Duong