Cập nhật giá tiêu
Tại thị trường trong nước
Theo khảo sát, giá tiêu hôm nay đồng loạt tăng mạnh.
Hiện tại, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu có giá giao dịch cao nhất ở mức 107.000 đồng/kg, tăng 3.000 đồng/kg.
Các tỉnh Đắk Lắk, Bình Phước và Đồng Nai tăng 2.000 - 3.000 đồng/kg lên chung mức 106.000 đồng/kg.
Thương lái tại Gia Lai và Đắk Nông đang thu mua hồ tiêu với giá tương ứng là 105.000 đồng/kg và 105.500 đồng/kg, tăng 2.000 đồng/kg.
Tỉnh/huyện (khu vực khảo sát) | Giá thu mua (Đơn vị: VNĐ/kg) | Thay đổi so với hôm qua (Đơn vị: VNĐ/kg) |
Đắk Lắk | 106.000 | +2.000 |
Gia Lai | 105.000 | +2.000 |
Đắk Nông | 105.500 | +2.000 |
Bà Rịa - Vũng Tàu | 107.000 | +3.000 |
Bình Phước | 106.000 | +3.000 |
Đồng Nai | 106.000 | +3.000 |
Trên thị trường thế giới thế giới
Theo cập nhật từ Hiệp hội Hồ tiêu Quốc tế (IPC) vào ngày 16/5 (theo giờ địa phương), giá giao dịch tiêu đen Lampung (Indonesia) tăng 0,39%, trong khi giá thu mua tiêu đen Brazil ASTA 570 và giá tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA duy trì ổn định so với ngày 15/5.
Tên loại | Bảng giá tiêu đen thế giới (ĐVT: USD/tấn) | ||
Ngày 15/5 | Ngày 16/5 | % thay đổi | |
Tiêu đen Lampung (Indonesia) | 4.887 | 4.906 | +0,39 |
Tiêu đen Brazil ASTA 570 | 5.000 | 5.000 | 0 |
Tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA | 4.900 | 4.900 | 0 |
Cùng thời điểm khảo sát, giá thu mua tiêu trắng Muntok tăng 0,37%, còn giá tiêu trắng Malaysia ASTA không có điều chỉnh mới.
Tên loại | Bảng giá tiêu trắng thế giới (ĐVT: USD/tấn) | ||
Ngày 15/5 | Ngày 16/5 | % thay đổi | |
Tiêu trắng Muntok | 6.447 | 6.451 | +0,37 |
Tiêu trắng Malaysia ASTA | 7.300 | 7.300 | 0 |
Giá hồ tiêu trong nước và xuất khẩu của Việt Nam vẫn ghi nhận tăng, trong khi mùa vụ thu hoạch hồ tiêu đã kết thúc nên nguồn cung sẽ ngày càng giảm. Do vậy, Hiệp hội Hồ tiêu và cây gia vị Việt Nam (VPSA) dự báo giá tiêu sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới.
Về xuất khẩu, Hiệp hội Hồ tiêu và cây gia vị Việt Nam cho biết, tính đến hết tháng 4/2024, Việt Nam đã xuất khẩu được 83.067 tấn hồ tiêu các loại; trong đó tiêu đen đạt 73.555 tấn, tiêu trắng đạt 9.512 tấn.
Tổng kim ngạch xuất khẩu hồ tiêu đạt 352 triệu USD. So với cùng kỳ năm ngoái lượng xuất khẩu giảm 19,4%, tuy nhiên kim ngạch lại tăng 10,3%. Giá xuất khẩu bình quân tiêu đen 4 tháng đạt 4.065 USD/tấn, tiêu trắng đạt 5.678 USD/tấn, tăng lần lượt 19,4% đối với tiêu đen và 14,5% đối với tiêu trắng so với cùng kỳ năm trước.
Olam Việt Nam là doanh nghiệp đứng đầu xuất khẩu 4 tháng đầu năm 2024 đạt 8.359 tấn, so cùng kỳ năm 2023 tăng 55,1% và chiếm 10,1% thị phần xuất khẩu. Tiếp theo là các doanh nghiệp Nedspice Việt Nam tăng 25,7%; Trân Châu giảm 15,1%; Liên Thành tăng 76,1% và Haprosimex JSC tăng 24%.
Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu hồ tiêu lớn nhất của Việt Nam chiếm 27,4% và so cùng kỳ tăng 45,2%. Tính chung xuất khẩu sang cả khu vực châu Mỹ tăng 40,6% và chiếm 30,2% thị phần xuất khẩu. Xuất khẩu sang châu Á vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất đạt 36,2%, tuy nhiên so cùng kỳ giảm 52%; trong đó giảm mạnh nhất là thị trường Trung Quốc 95,2%.
Khu vực châu Âu chiếm 26,8% thị phần xuất khẩu và so cùng kỳ năm ngoái tăng 33,6%; trong đó đứng đầu là các thị trường: Đức, Hà Lan, Nga…
Xuất khẩu các tháng đầu năm 2024 có sự thay đổi đáng kể, trong khi giảm ở Việt Nam và Brazil thì Ấn Độ và Indonesia lại là 2 quốc gia có lượng xuất khẩu tăng, Đài Phát thanh & Truyền hình An Giang đưa tin.
Nguyên nhân được cho là sản lượng ở Việt Nam giảm, còn ở Brazil thì được dự báo tăng vào cuối năm nhưng ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đã khiến cho sản lượng nước này không như kỳ vọng dẫn tới nguồn cung không dồi dào.
Cập nhật giá cao su
Tại Sở giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM), giá cao su giao kỳ hạn tháng 7/2024 giảm 0,72% xuống mức 317,6 yen/kg tại thời điểm khảo sát vào lúc 6h00 (giờ Việt Nam).
Trên Sàn giao dịch hàng hóa tương lai Thượng Hải (SHFE), giá cao su RSS3 giao kỳ hạn tháng 5/2024 duy trì ổn định ở mức 13.965 nhân dân tệ/tấn, giảm 0,57%.
Cao su của Việt Nam chủ yếu được xuất khẩu sang khu vực châu Á, chiếm 86,53% tổng trị giá xuất khẩu cao su của cả nước.
Nếu tính thị trường riêng lẻ, Trung Quốc vẫn là nơi tiêu thụ cao su lớn nhất của Việt Nam với 288 nghìn tấn, trị giá 408 triệu USD, giảm 1,6% về lượng, nhưng tăng 2,7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023, chiếm 69,48% về lượng và chiếm 67,15% về trị giá trong tổng xuất khẩu cao su của cả nước.
Việc giá cao su cao giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu được hưởng lợi. Tại Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) diễn ra hồi cuối tháng 3, ông Trần Thanh Phụng, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam - CTCP (Mã: GVR) cho biết tính đến ngày 29/3, GVR đã tiêu thụ 101.000 tấn, đạt 19,45% kế hoạch cả năm. Giá bán trung bình trong quý I/2024 là 36,7 triệu/tấn, cao hơn cùng kỳ 4,1 triệu đồng. Trong khi giá bán trung bình năm 2023 là 32,5 triệu đồng/tấn.
Tính đến cuối tháng 3 giá cao su hiện hành khoảng 49 triệu đồng, tăng 12,5 triệu đồng/tấn so với đầu năm 2024. Ông Phụng đánh giá mức tăng này là tốt và bất thường ngoài dự kiến, và là mức chưa từng có kể từ năm 2011. Vị lãnh đạo nhìn nhận có nhiều nguyên nhân kép dẫn đến mức giá này, thứ nhất là do mùa thấp điểm sản xuất cao su và thứ hai là do thời tiết bất lời vùng Đông Nam Á đang trải qua khiến sản lượng thu hoạch thấp.