Số doanh nghiệp rút khỏi thị trường gia tăng, cho thấy cộng đồng doanh nghiệp đang gặp khó. Trong khi vốn ngân hàng dồi dào nhưng vẫn là vấn đề khó khăn đối với một số doanh nghiệp, bất chấp lãi suất đang thấp nhất trong 20 năm qua.
Báo cáo của Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) cho rằng, có một nghịch lý là trong khi cần để san sẻ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân, thì các ngân hàng vẫn duy trì mức sinh lời cao từ hoạt động cho vay. Các ngân hàng cổ phần (NHCP) tư nhân không chỉ có biên lãi thuần NIM cao hơn mà còn được NHCP nhà nước "nhường" thị phần tín dụng
Doanh nghiệp “chết yểu” gia tăng, chỉ số sức khoẻ ngân hàng vẫn ổn
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, trong 4 tháng đầu năm 2024, số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường là 86.400 doanh nghiệp, tăng 12,2% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân một tháng có 21.600 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.
Đáng chú ý, trong tổng số 86.400 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường trong 4 tháng đầu năm có tới 60.872 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh, tăng 21,9% so với cùng kỳ năm 2023. Phần lớn doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh trong 4 tháng đầu năm có quy mô nhỏ, dưới 10 tỷ đồng với 54.511 doanh nghiệp, chiếm 89,6%, tăng 21,9% so với cùng kỳ năm 2023.
Vốn ngân hàng dồi dào nhưng vẫn là vấn đề khó khăn đối với một số doanh nghiệp.
Từ số liệu trên, tại tọa đàm đối thoại chính sách diễn ra vào ngày 17/5, TS Nguyễn Quốc Việt, Phó viện trưởng VEPR nhấn mạnh, số lượng doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường cao hơn nhiều lần so với doanh nghiệp đăng ký thành lập mới. Điều này cho thấy các khó khăn đè nặng doanh nghiệp suốt thời gian qua đã khiến bức tranh phát triển doanh nghiệp trở nên ảm đạm.
Theo báo cáo của VEPR, có một nghịch lý là trong khi doanh nghiệp và người dân khó khăn, cần san sẻ, thì bức tranh ngân hàng lại rất khác biệt khi vẫn duy trì mức sinh lời cao từ hoạt động cho vay.
Khi đại dịch Covid-19 ập đến vào đầu năm 2020, gần như ngay lập tức chính sách tiền tệ được nới lỏng bằng định hướng hạ lãi suất nhằm hỗ trợ kinh tế. Tuy nhiên các ngân hàng lại giảm lãi suất huy động nhanh hơn so với lãi suất cho vay khiến cho NIM tăng.
Thậm chí 2 năm sau Covid-19, NIM của các ngân hàng vẫn còn cao hơn so với khoảng thời gian trước dịch. Một lý do mà các ngân hàng giải thích cho việc này là các hợp đồng cho vay thường có kỳ hạn dài hơn hợp đồng tiền gửi tiết kiệm nên biến động lãi suất sẽ có ảnh hưởng chậm hơn tới lãi suất cho vay.
“Xét về bản chất kỳ hạn thì điều này đúng. Tuy nhiên đến giờ thì đã là 4 năm kể từ khi lãi suất được định hướng giảm, thì có lý do gì mà lãi suất cho vay chưa giảm tương xứng với mức giảm lãi suất huy động”, TS Nguyễn Quốc Việt hoài nghi và nhấn mạnh rất cần có sự mổ xẻ sâu hơn.
Tuy nhiên, các chuyên gia cũng cho rằng các NHCP nhà nước (BIDV, Vietinbank, Vietcombank) tiên phong trong việc hạ lãi suất xuống mức thấp hơn so với nhóm NHCP tư nhân nên NIM cũng thấp hơn.
Ngoài việc giảm lợi nhuận, ngân hàng quốc doanh còn giảm tăng trưởng tín dụng như: BIDV, Vietinbank có mức tăng trưởng tín dụng dưới mức trung bình ngành (13,5%), trong khi nhiều ngân hàng tư nhân có tăng trưởng tín dụng cao hơn 20% trong 5 năm liên tiếp. Do đó, thị phần các nhóm này đã thay đổi.
Cụ thể, năm 2018, thị phần nhóm Big 4 là 48.4%, thì đến năm 2023 con số này giảm xuống còn 44.1%. “Các NHCP tư nhân không chỉ có NIM cao hơn mà còn được NHCP nhà nước “nhường” thị phần tín dụng, điều này là nền tảng để họ đạt được tăng trưởng lợi nhuận cao”, VEPR nhận xét.
Tín dụng có đang báo động?
Nhận định về tình hình hiện nay, các chuyên gia cho rằng “sức khoẻ”của doanh nghiệp đang rất đáng báo động, đã tác động lên tăng trưởng tín dụng.
“Tín dụng có dấu hiệu “đông cứng” khi tăng trưởng tín dụng quý I/2024 thấp nhất trong 10 năm qua dù lãi suất cho vay đã hạ rất thấp. Nguyên nhân các doanh nghiệp không có nhu cầu vay vốn do hiệu suất kinh doanh giảm”, ông Việt nói.
Ngược lại, nhiều doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn nhưng lại gặp khó khăn trong việc tiếp cận tín dụng
“Tình trạng “sức khoẻ” doanh nghiệp bất ổn và tín dụng ảm đạm là những vấn đề đáng báo động, phản ánh sự thiếu hụt các động lực tăng trưởng mạnh mẽ, nếu kéo dài sẽ có nguy cơ suy thoái. Do đó, cần sự chung tay giải quyết của Chính phủ, doanh nghiệp và người dân”, ông Việt lưu ý.
Theo GS, TS Hoàng Văn Cường, Ủy viên Ủy ban Tài chính ngân sách của Quốc hội, trong bối cảnh doanh nghiệp rất khó khăn, Ngân hàng Nhà nước kéo dài Thông tư 02 về cơ cấu, giãn hoãn nợ cho doanh nghiệp là giải pháp rất tốt, nhưng theo ông Cường hiện nay nhiều doanh nghiệp vẫn còn khoản nợ cũ. Thậm chí, lãi suất hiện nay ở mức thấp để kích thích tăng trưởng thì doanh nghiệp khó tiếp cận được.
Tuy nhiên, dưới góc nhìn của TS Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế trưởng ngân hàng BIDV, hệ thống ngân hàng rất muốn cho vay, lãi suất cho vay hiện nay tốt hơn rất nhiều so với cách đây 1 năm. Bình quân mức cho vay sàn khoảng 3%/năm. “Trong hai tháng qua tín dụng phục hồi rất tốt, từ mức tăng trưởng âm hồi đầu năm đến giữa tháng 4 tín dụng đã phục hồi hơn 2%”, ông Lực cho hay.
Theo chuyên gia này, nếu so sánh mức tăng trưởng tín dụng những tháng đầu năm nay với mức nền rất cao của quý IV/2023 sẽ thấy tín dụng tăng chậm thì không phải là vấn đề đáng lo.
Đặt vấn đề vì sao tăng trưởng tín dụng còn thấp? Theo ông Lực đó là do sức cầu tiêu dùng, bởi tín dụng tiêu dùng chiếm khoảng 20% tổng tín dụng. Điển hình, với lĩnh vực cho vay bất động sản (BĐS), cho vay kinh doanh BĐS chiếm 35%; cho vay mua nhà, sửa nhà chiếm khoảng 62%, nhưng thời gian qua cho vay mua, sửa nhà chỉ tăng có 1,1%.
Theo ông Lực, trong bối cảnh kinh tế khó khăn, khả năng đáp ứng điều kiện tín dụng của bên đi vay vốn như: tài sản đảm bảo, năng lực tài chính, chứng minh khả thi của dự án…sẽ suy giảm. Trong khi bản thân các ngân hàng khi nợ xấu tăng lên sẽ thận trọng cho vay hơn. Vì vậy cả về phía cung và cầu đều có rào cản nhất định.
Dù vậy, ông Lực cho rằng tăng trưởng tín dụng cả năm nay sẽ đạt được mục tiêu tăng trưởng từ 13-14%.