PVD - Đã qua thời gian khó

PVD ghi nhận kết quả kinh doanh Q3/2025 với lợi nhuận sau thuế đạt 277 tỷ đồng (+54% svck và +10,8% so với quý trước), phù hợp với kỳ vọng của chúng tôi. Lũy kế 9T2025, LNST tăng 46% svck lên 673 tỷ đồng, hoàn thành 127% kế hoạch năm và 76% dự phóng. Khuyến nghị mua với giá mục tiêu là 26.000đ/cp.

PVD công bố BCTC Q3/2025 với doanh thu đạt 2.570 tỷ đồng (+5,4% svck) và LNST đạt 277 tỷ đồng (+54% svck). Biên LN gộp tăng lên 23,7% so với mức 18,4% cùng kỳ năm trước. Mức tăng này là nhờ:

  • Doanh thu mảng cung cấp dịch vụ kỹ thuật giếng khoan (tiếp nối đà tăng từ đầu năm) tăng 67% svck nhờ khối lượng công việc tăng. Biên lợi nhuận gộp mảng này cũng cải thiện lên mức 24,7% từ mức 21,2% cùng kỳ năm trước.
  • Biên LN gộp mảng dịch vụ khoan tăng lên 24,1% từ mức 18,9% cùng kỳ năm trước nhờ hiệu suất sử dụng giàn khoan cao và giá cho thuê giàn tăng nhẹ 1% svck.
  • PVD bắt đầu ghi nhận doanh thu từ PVD VII từ 1/9/2025.

Diễn biến này đã bù đắp tác động tiêu cực của chi phí quản lý doanh nghiệp tăng 21,5% lên 198 tỷ đồng, trong đó chi phí nhân công tăng 19,9% svck. Tỷ lệ chi phí này trên doanh thu tăng lên 7,7% so vớ mức 6.7% cùng lỳ năm trước. Ngoài ra, doanh thu mảng dịch vụ khoan giảm 7,2% do số lượng giàn thuê ngoài giảm (Q3/2025: 1 giàn so với Q3/2024: 1,6 giàn).

Lũy kế 9T2025, doanh thu thuần đạt 6.551 tỷ đồng (+1% svck) và LNST 673 tỷ đồng (+46% svck). Bên cạnh đóng góp tích cực của mảng dịch vụ kỹ thuật giếng khoan nhờ hoạt động tìm kiếm khai thác dầu khí trong nước gia tăng, tăng trưởng LNST có sự đóng góp lớn từ khoản thu nhập khác 185 tỷ đồng (so với mức cùng kỳ 15,7 tỷ đồng). Khoản mục này chủ yếu đến từ việc ghi nhận phần còn lại của khoản thoái vốn giàn khoan đất liền PVD11 trong Q1/2025).

Triển vọng

Chúng tôi giữ nguyên dự phóng doanh thu năm 2025 đạt 9.781 tỷ đồng (+5,3% svck) và LNST 884 tỷ đồng (+27,4% svck). Ngoài ra, cho năm 2026, với dự phóng giá dầu Brent duy trì ở mức thấp, triển vọng giá cho thuê giàn vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Doanh thu 2026 dự kiến đạt 10.948 tỷ đồng (+12% svck) và LNST 1.002 tỷ đồng (+13,3% svck) nhờ sự đóng góp thêm từ giàn khoan mới PVD IX. Bằng phương pháp chiết khấu dòng tiền DCF, chúng tôi định giá PVD với giá mục tiêu là 26.000 đồng/cp.

Tư vấn mở tài khoản chứng khoán:

Margin 3:7 lãi 9.9%/năm, phí 0.15%

Bảo lãnh thêm sức mua đầu ngày

Có hàng T0

Điện thoại: 0912107487

PVD CE nào.

PVD sóng này hay đấy Bro, toàn là cùng thuyến lớn với Bro

Kao mua trả góp hoặc mua bằng lá tre được không?
Mua theo mài cả trăm mã vẫn chưa đủ KPI ah?

PVD múc giá này tết bánh trưng có thịt và mang tiền về cho mẹ nhé. Tất cả các giàn khoan có việc full đến 2030.
Còn nhiều cái hay nữa!

OK bro

Lô B thì khoan cả ngàn giếng đến lúc Hưu nhé

Ngoài các giàn của PVD kín việc thì hiện các giàn khoan ở nước ngoài vào VN khoan đều ký qua PVD, do vậy ngoài doanh thu lợi nhuận từ các giàn PVD đem lại thì PVD còn có nguồn lời nhuận chênh lệch từ việc quản lý và cho thuê lại các giàn này.
Hệ sinh thái cung cấp dịch vụ của PVD hiện nay tương đối hoàn hảo, đồng bộ và khép kín, lên hứa hẹn một PVD sẽ trở lại mạnh mẽ.

Đây là từ năm 2024, và năm 2025 PVD đã ký được HĐ

Đỏ không múc lát xanh tím lấy gì té!

Ngon

Múc!

OK bro

Đếm dấu răng chưa đủ kpi chưa có cơm

Giờ chỉ còn PVD thoai, em nó tích luỹ quá lâu roài, về lại thời hoàng kim nhé.

Anh em múc PVD có phải né được cú đạp không? :joy:

PVD liên tục ra tin thế này thì tiền còn nhiều.
Riêng PVD được ký bằng Trump lên không bị trượt tỷ giá.
Giàn PV DRILLING I sẽ khoan tại cụm mỏ Sư Tử từ tháng 3/2026 - PV Drilling?

Giàn PVD I trở lại Việt Nam, và dự kiến sẽ hết khấu hao vào giữa năm sau.

PV Drilling cho biết giàn khoan tự nâng PVD I sẽ trở lại Việt Nam từ tháng 3/2026 để thực hiện chương trình khoan 3 giếng tại cụm mỏ Sư Tử (Lô 15-1) cho PVEP Cửu Long , với thời gian dự kiến 249 ngày.

Ngoài ra, giàn khoan PVD I dự kiến sẽ hết khấu hao vào giữa năm 2026 . Cụ thể như sau: Chúng tôi ước tính chi phí khấu hao của giàn PVD I khoảng hơn 14.000 USD/ngày. Theo đó, giàn sẽ hết khấu hao vào tháng 4–5/2026, giúp giảm đáng kể chi phí vận hành và bù đắp một phần mức tăng khấu hao từ các giàn mới (PVD VIII, PVD IX).

Bước sang năm 2026 , triển vọng của PV Drilling được đánh giá tích cực , khi ba giàn sở hữu (PVD I, PVD VIII và PVD IX) đều hoạt động tại Việt Nam. Chiến lược này có thể giúp giảm số giàn thuê ngoài xuống còn 2–3 giàn, đồng thời gia tăng doanh thu và biên lợi nhuận nhờ đẩy mạnh cung cấp dịch vụ kỹ thuật giếng khoan trọn gói – mảng có biên lợi nhuận cao. Theo đó, doanh thu từ mảng kinh doanh này được kỳ vọng sẽ “nở rộ” trong giai đoạn 2026–2027, trở thành một trong những động lực chính thúc đẩy tăng trưởng lợi nhuận của PVD bên cạnh mảng dịch vụ khoan cốt lõi.

Cổ đông P vào mùa thu hoạch.

1. Giá dầu và động lực cung – cầu

Theo báo cáo mới nhất của Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) ngày 12/11/2025, nhu cầu dầu toàn cầu được dự báo tiếp tục tăng đến năm 2050 trong kịch bản Chính sách hiện hành (CPS). Đây là sự điều chỉnh đáng chú ý so với các dự báo trước đó, vốn cho rằng nhu cầu sẽ đạt đỉnh vào khoảng năm 2030.

Cụ thể, mức tiêu thụ dầu toàn cầu (bao gồm nhiên liệu sinh học) dự kiến tăng từ 100 triệu thùng/ngày (2024) lên 105 triệu thùng vào năm 2035 và đạt 113 triệu thùng/ngày vào năm 2050. Với kịch bản này, giá dầu thô được dự báo vượt ngưỡng 100 USD/thùng vào năm 2050, phản ánh sự thắt chặt nguồn cung và chi phí đầu tư khai thác tăng cao.

Mặc dù thị trường hiện đang ghi nhận thặng dư cung ngắn hạn khoảng 3 triệu thùng/ngày, song IEA cảnh báo rằng sản lượng suy giảm tại các mỏ hiện hữu sẽ nhanh chóng hấp thụ lượng dư này. Theo tính toán, thế giới cần bổ sung khoảng 25 triệu thùng/ngày từ các dự án mới trong thập kỷ tới để duy trì trạng thái cân bằng thị trường.

Chúng tôi cho rằng, bức tranh này cho thấy chu kỳ đầu tư mới trong lĩnh vực thượng nguồn (E&P) là tất yếu, đồng thời giá dầu sẽ có xu hướng duy trì ở vùng cao trong trung và dài hạn nhờ cầu tăng bền vững và nguồn cung hạn chế.

2. Các thông tin khác

  • Thay đổi chính sách tại Mỹ: Yếu tố đảo chiều xu hướng năng lượng sạch

IEA nhấn mạnh việc Hoa Kỳ rút khỏi Thỏa thuận Paris và nới lỏng các chính sách khí hậu đang làm chậm tiến trình chuyển dịch sang năng lượng tái tạo. Dưới tác động này, tổ chức ước tính công suất năng lượng tái tạo có thể giảm 30%, và số lượng xe điện lưu hành tại Mỹ có thể thấp hơn 60% so với ước tính trước đây.

Chúng tôi đánh giá, sự đảo chiều này khiến quá trình khử carbon diễn ra chậm hơn, kéo dài thời gian phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch, qua đó có thể hỗ trợ giá dầu trong ngắn và trung hạn.

  • Động cơ tăng trưởng: Nền kinh tế mới nổi dẫn dắt nhu cầu

IEA cho rằng tăng trưởng tiêu thụ năng lượng toàn cầu đang được dẫn dắt bởi các nền kinh tế mới nổi ngoài Trung Quốc, đặc biệt là Ấn Độ và Indonesia, với mức tăng trung bình trên 3%/năm trong thập kỷ tới.

Các lĩnh vực hóa dầu, hàng không, vận tải và xây dựng tiếp tục là động lực chính cho nhu cầu dầu mỏ. Chúng tôi kỳ vọng rằng trong khi tiêu thụ tại các nền kinh tế OECD đang chững lại, sự mở rộng công nghiệp và đô thị hóa nhanh tại châu Á sẽ bù đắp hoàn toàn cho phần sụt giảm ở khu vực phát triển, giúp cầu dầu duy trì xu hướng tăng đến giữa thế kỷ.

  • Xe điện và tiến trình chuyển đổi năng lượng

Tốc độ phổ cập xe điện (EV) là biến số quan trọng ảnh hưởng đến nhu cầu dầu. Trong kịch bản hiện tại, IEA dự báo thị phần EV toàn cầu có thể đạt khoảng 40% vào năm 2035 (thấp hơn mức 50% dự báo trước đó).

Chúng tôi cho rằng, tốc độ EV hóa chậm lại phản ánh rào cản về hạ tầng, chi phí pin và chính sách hỗ trợ chưa nhất quán ở các thị trường/khu vực khác nhau. Điều này cho thấy quá trình chuyển đổi năng lượng sẽ diễn ra dần dần, qua đó tiếp tục duy trì vai trò chủ đạo của dầu mỏ trong cơ cấu năng lượng toàn cầu ít nhất đến 2050.

  • Rủi ro khí hậu và khoảng cách tới mục tiêu Net Zero

Trong báo cáo mới nhất, IEA cũng cảnh báo mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 (Net Zero) ngày càng xa tầm với. Cụ thể: Nhiệt độ toàn cầu năm 2024 cao hơn 1,55°C so với thời kỳ tiền công nghiệp, và gần như khả năng cao sẽ vượt ngưỡng 1,5°C trong thập kỷ tới.

Chúng tôi cho rằng điều này tiềm ẩn nguy cơ các chính phủ sẽ tái siết chính sách khí hậu trong tương lai, thông qua thuế carbon, hạn ngạch phát thải hoặc tiêu chuẩn nhiên liệu nghiêm ngặt hơn. Mặc dù đây là rủi ro dài hạn cho các doanh nghiệp dầu khí, song trong ngắn hạn các yếu tố này vẫn chưa đủ mạnh để kìm hãm đà tăng giá dầu.

3. Nhận định

Chúng tôi cho rằng, bối cảnh hiện tại phản ánh một chu kỳ năng lượng thực tế và dài hạn, trong đó dầu mỏ vẫn giữ vai trò trung tâm trong cơ cấu tiêu thụ toàn cầu ít nhất đến giữa thế kỷ này.

Và chúng tôi kỳ vọng các yếu tố hỗ trợ chính bao gồm:

  • (1) Nhu cầu dầu chưa đạt đỉnh trước năm 2050, với động lực chính từ các nền kinh tế mới nổi.
  • (2) Sản lượng mỏ hiện hữu đang trên đà suy giảm nhanh, tạo áp lực đầu tư mới đáng kể.
  • (3) Chính sách khí hậu thiếu nhất quán tại Mỹ sẽ làm chậm tiến trình năng lượng sạch.

Trong báo cáo gần nhất, chúng tôi dự báo giá dầu bình quân cho Q4/2025 và năm 2026 sẽ duy trì ở vùng 65 USD/thùng và khó có thể giảm sâu hơn nhờ vào các yếu tố hỗ trợ. Trong trung & dài hạn, chúng tôi duy trì quan điểm khả quan với giá dầu ở vùng giá tích cực, phản ánh cầu tăng ổn định toàn cầu.

Ở tuần sau lại dẫn dắt thị trường anh em nhỉ.