Chào Năm Mới 2025 {2+0+2+5} Số 9 Là Con Số Cao Nhất Trong Vũ Trụ Quyền Lực

,

8 tháng 1, 13:31

Reuters: Alaska kiện chính phủ Hoa Kỳ về các hạn chế phát triển dầu mỏ

Cơ quan này lưu ý rằng chính quyền Alaska không hài lòng với quyết định của chính quyền Hoa Kỳ đưa ra vào tháng 12 năm ngoái nhằm hạn chế việc phát triển các hợp đồng cho thuê dầu khí tại tiểu bang này.

NEW YORK, ngày 8 tháng 1. /TASS/. Tiểu bang Alaska đã đệ đơn kiện chính quyền sắp mãn nhiệm của Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden về những hạn chế do chính phủ liên bang áp đặt đối với việc phát triển các mỏ dầu khí, [Reuters] đưa tin.

Cơ quan này lưu ý rằng chính quyền Alaska không hài lòng với quyết định của chính quyền Hoa Kỳ đưa ra vào tháng 12 năm ngoái nhằm hạn chế việc phát triển các hợp đồng cho thuê dầu khí tại tiểu bang này. Quyết định này khiến cho việc phát triển 400.000 mẫu Anh đất trở nên “không thể hoặc không khả thi”, cơ quan này trích dẫn tuyên bố. Reuters lưu ý rằng các biện pháp này “sẽ hạn chế nghiêm trọng hoạt động thăm dò và khoan dầu trong tương lai” tại Khu bảo tồn động vật hoang dã quốc gia Bắc Cực ở Alaska.

Tổng thống đắc cử Hoa Kỳ Donald Trump trước đó đã hứa rằng vào ngày đầu tiên sau khi nhậm chức, ông sẽ dỡ bỏ mọi hạn chế đối với sản xuất năng lượng do Biden áp đặt. Ông cũng cho biết sẽ mở lại Khu bảo tồn động vật hoang dã quốc gia Bắc Cực để sản xuất dầu khí.

3 Likes

9 tháng 1, 10:39

Trump nói ông sẽ không để Trung Quốc điều hành Kênh đào Panama

“Họ đã đưa cho họ với giá 1 đô la và sau đó họ tính thêm tiền cho tàu của chúng tôi. Điều đó sẽ không xảy ra. Và Trung Quốc đang điều hành Kênh đào Panama. Điều đó cũng sẽ không xảy ra”, ông nói.

WASHINGTON, ngày 9 tháng 1. /TASS/. Tổng thống đắc cử Hoa Kỳ Donald Trump nói với các phóng viên rằng ông sẽ không để Trung Quốc quản lý Kênh đào Panama.

“Họ đã bán cho họ với giá 1 đô la và sau đó họ tính thêm tiền cho tàu của chúng tôi. Điều đó sẽ không xảy ra. Và Trung Quốc đang điều hành Kênh đào Panama. Điều đó cũng sẽ không xảy ra”, Trump nói.

Trước đó, tổng thống đắc cử đã nói rằng Hoa Kỳ có thể giành lại quyền kiểm soát Kênh đào Panama nếu các điều khoản sử dụng hiện tại không được đàm phán lại. Ông chỉ trích mức thuế quan cao áp dụng cho việc quá cảnh qua kênh đào và nhấn mạnh rằng việc từ bỏ quyền kiểm soát kênh đào vào năm 1999 là một cử chỉ hợp tác, không phải là sự nhượng bộ cho các quốc gia khác. Tổng thống Panama Jose Raul Mulino cho biết chủ quyền đối với kênh đào và nền độc lập của đất nước không thể đàm phán được.

Kênh đào Panama, được đưa vào sử dụng năm 1914, do Hoa Kỳ xây dựng và nằm dưới sự kiểm soát của Hoa Kỳ. Năm 1977, Hiệp ước Torrijos-Carter đã thiết lập việc chuyển giao dần dần kênh đào cho Panama, được hoàn thành vào năm 1999. Hiệp ước này thiết lập tính trung lập của kênh đào và khả năng tiếp cận thương mại thế giới. Ngày nay, nó vẫn là tuyến đường quan trọng đối với nền kinh tế toàn cầu và là một trong những mục tiêu chính của lợi ích Hoa Kỳ.

4 Likes

9 tháng 1, 08:17

Thủ tướng Slovakia cho biết nguồn cung khí đốt ổn định với mức giá chấp nhận được là kết quả của chuyến thăm Nga

Robert Fico cáo buộc Ukraine gây tổn hại đến an ninh năng lượng của Slovakia bằng cách từ chối gia hạn thỏa thuận về việc vận chuyển khí đốt của Nga qua lãnh thổ của nước này

PRAGUE, ngày 9 tháng 1. /TASS/. Thủ tướng Slovakia Robert Fico mô tả nguồn cung cấp khí đốt ổn định cho nước này là kết quả chính trong cuộc hội đàm của ông với Tổng thống Nga Vladimir Putin tại Moscow vào tháng 12.

Reuters trích dẫn đoạn trích từ tuyên bố trên video của Fico: “Tôi cần đảm bảo lượng khí đốt tối thiểu cho nhu cầu tiêu thụ trong nước của Slovakia - điều mà chúng tôi đã đảm bảo, thậm chí không cần tăng giá khí đốt”.

Thủ tướng Slovakia cáo buộc Ukraine gây tổn hại đến an ninh năng lượng của Slovakia bằng cách từ chối gia hạn thỏa thuận về việc vận chuyển khí đốt của Nga qua lãnh thổ của mình. Fico đe dọa sẽ cắt giảm phúc lợi cho người tị nạn Ukraine và cắt điện cho Ukraine từ Slovakia.

Vào ngày 22 tháng 12, thủ tướng Slovakia đã có chuyến công tác tới Moscow. Putin đã tiếp ông tại Điện Kremlin. Đây là cuộc gặp mặt trực tiếp đầu tiên giữa hai nhà lãnh đạo kể từ năm 2016. Theo Bộ trưởng Ngoại giao Nga Sergey Lavrov, trong các cuộc hội đàm, các bên đã thảo luận về các cách thức và lựa chọn cung cấp khí đốt của Nga cho châu Âu.

Vào ngày 1 tháng 1, quá trình vận chuyển khí đốt của Nga sang châu Âu qua Ukraine đã dừng lại hoàn toàn do Kiev từ chối gia hạn thỏa thuận, theo đó sẽ bơm 40 tỷ mét khối mỗi năm. Trước đó, Gazprom của Nga cho biết việc phía Ukraine từ chối đã tước đi khả năng kỹ thuật và pháp lý của Nga trong việc cung cấp nhiên liệu qua tuyến đường này. Dữ liệu từ các công ty vận chuyển khí đốt châu Âu xác nhận việc hoàn tất giao hàng đến Áo, Ý, Moldova, Slovakia và Cộng hòa Séc qua tuyến đường này.

3 Likes

9 tháng 1, 19:49

Nhân loại đã cung cấp cho AI tất cả kiến ​​thức của mình — Musk

Doanh nhân này tin rằng có khả năng lớn là trí tuệ nhân tạo sẽ vượt qua khả năng của con người sớm nhất là vào cuối năm nay

Elon Musk Allison Robbert / Pool qua AP

Elon Musk

© Allison Robbert/Pool qua AP

NEW YORK, ngày 9 tháng 1. /TASS/. Nhân loại đã cung cấp cho các mô hình trí tuệ nhân tạo (AI) tất cả kiến ​​thức mà mình có, và công nghệ này hiện sẽ bước vào kỷ nguyên mà nó sẽ phải tự học để phát triển hơn nữa, doanh nhân người Mỹ Elon Musk cho biết trong một cuộc phỏng vấn với Mark Penn, giám đốc điều hành của tập đoàn tiếp thị Stagwell.

“Chúng ta đã cạn kiệt; tổng lượng kiến ​​thức tích lũy của con người đã cạn kiệt trong quá trình đào tạo AI”, Musk nói. “Về cơ bản, điều đó đã xảy ra vào năm ngoái”, ông lưu ý. Bây giờ, chính AI phải giúp con người làm cho nó mạnh hơn. Do đó, thông tin được tổng hợp bởi AI phải được sử dụng để phát triển nó hơn nữa, tạo ra một quá trình tự học, Musk nói.

Doanh nhân này tin rằng có khả năng lớn là trí tuệ nhân tạo sẽ vượt qua khả năng của con người sớm nhất là vào cuối năm nay. Musk trước đó đã nói rằng khả năng AI trở nên thông minh hơn tất cả mọi người trên Trái đất cộng lại là 100% vào năm 2030.

5 Likes

Ngày 10 tháng 1, 04:58

Spiegel: Scholz chặn nguồn cung cấp vũ khí bổ sung trị giá 3 tỷ euro cho Kiev

Thủ tướng liên bang Đức Olaf Scholz
© Sergey Guneev/ POOL/ TASS

Văn phòng Thủ tướng Liên bang giải thích rằng họ không muốn đối đầu với chính phủ mới bằng một việc đã rồi.

BERLIN, ngày 10 tháng 1. /TASS/. Thủ tướng Đức Olaf Scholz đang ngăn chặn việc phân bổ gói viện trợ quân sự bổ sung cho Kyiv trị giá 3 tỷ euro, vốn đang được thúc đẩy bởi người đứng đầu Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng Annalena Bärbock và Boris Pistorius. Điều này đã được tạp chí Der Spiegel đưa tin, dẫn nguồn tin.

Theo ông, các bộ trưởng muốn cung cấp hỗ trợ mới trước cuộc bầu cử Bundestag dự kiến vào ngày 23 tháng 2. Các chuyên gia của Bộ Quốc phòng thậm chí còn chuẩn bị sẵn danh sách vũ khí, trong đó có thêm 3 hệ thống phòng không IRIS-T, bao gồm đạn pháo, tên lửa Patriot, 10 khẩu pháo và đạn dược. Nó đã được lên kế hoạch thông qua Ủy ban Ngân sách Bundestag 3 tỷ euro như một khoản chi phí bổ sung. Trước đây, chính phủ Đức đã tận dụng kẽ hở như vậy để hỗ trợ Kiev. Baerbock và Pistorius có ý định báo hiệu rằng Đức sẽ không ngừng nỗ lực hỗ trợ Ukraine khi Donald Trump lên nắm quyền ở Hoa Kỳ.

Tuy nhiên, Thủ tướng Liên bang đã nói rõ một cách không chính thức rằng họ sẽ không phê duyệt gói viện trợ quân sự bổ sung. Ở đó, theo ấn phẩm, họ biện minh cho quan điểm của mình bằng cách nói rằng họ không muốn đối đầu với chính phủ mới của Đức bằng một việc đã rồi, đồng thời chỉ ra rằng Đức vẫn có đủ tiền để tài trợ cho việc cung cấp vũ khí cho Kiev. Ngoài ra, ngân sách cho năm 2025 cung cấp khoảng 4 tỷ euro cho những mục đích này. Ngoài ra, bộ phận của Scholz đã nhắc lại quyết định của G7 về việc cung cấp khoản vay cho Ukraine bằng cách sử dụng thu nhập từ tài sản bị phong tỏa của Nga.

Tuy nhiên, như Der Spiegel viết, Đảng Dân chủ Xã hội Đức tin rằng Scholz đơn giản là không có ý định công bố hỗ trợ mới cho Kyiv giữa cuộc đua bầu cử.

Đức là nhà cung cấp vũ khí lớn thứ hai cho Ukraine sau Mỹ. Đức đã phân bổ kinh phí hỗ trợ quân sự cho Kiev và cam kết chi tiêu trong tương lai với số tiền khoảng 28 tỷ euro. Theo thỏa thuận về ngân sách cho năm 2025, Đức phải phân bổ khoảng 4 tỷ euro để hỗ trợ quân sự cho Ukraine. bằng một nửa so với năm 2024. Tuy nhiên, ngân sách vẫn chưa được Bundestag phê duyệt.

5 Likes

Ngày 10 tháng 1, 06:36

Biden gọi vụ cháy ở California có sức tàn phá lớn nhất trong lịch sử bang

© Ảnh AP/Chris Pizzello

Tổng thống Mỹ lưu ý 360 nghìn người đã được sơ tán

Washington, ngày 10 tháng 1 /TASS/. Tổng thống Mỹ Joe Biden gọi đám cháy ở California, nơi có diện tích lên tới gần 11 nghìn ha, là vụ cháy lớn nhất và có sức tàn phá nặng nề nhất trong lịch sử bang này. Ông đã tuyên bố điều này vào thứ năm tại một cuộc họp báo.

Ông nói: “Đây là những vụ cháy có sức tàn phá lớn nhất trong lịch sử California. Như Biden đã chỉ ra, chính quyền Mỹ đang cử thêm đội cứu hỏa và máy bay đến California để dập tắt đám cháy. Ông lưu ý rằng điều này bao gồm sự tham gia của lực lượng cứu hỏa và máy bay chữa cháy từ Canada.

Tổng thống Mỹ tiếp tục: “Hiện tại, 360 nghìn người đã được sơ tán.

Khi được các phóng viên hỏi về chi phí tiềm tàng để xây dựng lại sau đám cháy, Biden không đưa ra con số chính xác nhưng lưu ý rằng đó sẽ là một “con số rất lớn”. “Sự thật là không ai có thể nói với bạn điều này. <…> Bất cứ ai nói với bạn một con số bây giờ đều không biết họ đang nói về cái gì. Đó là một con số rất, rất, rất lớn,” tổng thống nói.

Theo dự báo của công ty tư vấn AccuWeather, thiệt hại và tổn thất kinh tế do vụ cháy sẽ dao động từ 52 đến 57 tỷ USD. Đồng thời, tờ Financial Times dẫn thông tin từ JPMorgan đưa tin rằng thiệt hại của các công ty bảo hiểm do hỏa hoạn ở California có thể lên tới. 20 tỷ USD, với tổng thiệt hại là 50 tỷ USD.

6 Likes

Ngày 10 tháng 1, 08:13

Trump tuyên bố chuẩn bị cho cuộc gặp với Putin

Donald Trump
© Ảnh AP/Evan Vucci

NEW YORK, ngày 10 tháng Giêng. /TASS/. Tổng thống đắc cử Mỹ Donald Trump tuyên bố chuẩn bị cho cuộc gặp với Tổng thống Nga Vladimir Putin.

“Ông ấy muốn gặp. Và chúng tôi đang chuẩn bị,” ông nói khi phát biểu tại Florida. Việc phát sóng được thực hiện bởi Fox News.

6 Likes

Biển hiệu nổi tiếng của Hollywood đang bốc cháy.

6 Likes

Máy bay không người lái bí ẩn đang đốt cháy California.

Hiện tại đang có những đám cháy lớn đang hoành hành ở California và máy bay không người lái/UFO đã được phát hiện phía trên chúng.

5 Likes

9 tháng 1, 22:09

Nhà ngoại giao hàng đầu của Anh hy vọng Trump sẽ giải quyết xung đột Ukraine vào khoảng lễ Phục sinh

Năm 2025, người Công giáo, Tin lành và Chính thống giáo Nga mừng lễ Phục sinh vào cùng một ngày, ngày 20 tháng 4

Bộ trưởng Ngoại giao Anh David Lammy Stefan Rousseau/Pool Photo qua AP

Bộ trưởng Ngoại giao Anh David Lammy

© Stefan Rousseau/Pool Photo qua AP

LONDON, ngày 9 tháng 1. /TASS/. Bộ trưởng Ngoại giao Anh David Lammy tin rằng giải pháp cho cuộc xung đột Ukraine do chính quyền Donald Trump làm trung gian có thể đạt được sớm nhất vào cuối tháng 4.

“Donald Trump vẫn chưa nắm quyền. Tôi nghĩ rằng các dấu hiệu cho thấy, từ những gì tôi thấy trong vài ngày qua, có một sự phản kháng nhẹ đối với cảm giác rằng bằng cách nào đó một thỏa thuận sẽ đạt được vào ngày 21 tháng 1, tôi nghĩ rằng điều đó hiện không có khả năng xảy ra”, nhà ngoại giao hàng đầu của Anh cho biết, khi nói về lời thề trước bầu cử của Trump là sẽ giải quyết xung đột Ukraine trong một ngày nếu ông trở lại Nhà Trắng. “Và chúng tôi nghe nói rằng, thực tế là, thời gian biểu đã được chuyển xuống một chút […] về phía Lễ Phục sinh”, [tờ Guardian] trích lời ông nói.

Năm 2025, người Công giáo, Tin lành và Chính thống giáo Nga sẽ cùng mừng lễ Phục sinh vào cùng một ngày, ngày 20 tháng 4.

Trong cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ vào ngày 5 tháng 11 năm 2024, đảng Cộng hòa Trump đã đánh bại đối thủ đảng Dân chủ của mình, Phó Tổng thống Hoa Kỳ Kamala Harris. Ông sẽ nhậm chức tổng thống thứ 47 của Hoa Kỳ vào ngày 20 tháng 1 năm 2025.

Trong chiến dịch tranh cử tổng thống của mình, chính trị gia này đã nhiều lần nhấn mạnh kế hoạch giải quyết xung đột Ukraine chỉ trong vài ngày cũng như chấm dứt mọi cuộc chiến đang diễn ra trên thế giới nói chung. Trump cũng không rút lại lời thề tranh cử của mình sau khi kết quả bầu cử được công bố.

Trong cuộc họp báo ngày 7 tháng 1 tại dinh thự Mar-a-Lago của mình gần West Palm Beach, Florida, Trump cho biết ông hy vọng rằng các cuộc đàm phán của ông với Tổng thống Nga Vladimir Putin về chủ đề xung đột Ukraine, cùng với các vấn đề khác, sẽ diễn ra sớm hơn nhiều so với sáu tháng sau lễ nhậm chức của ông. Ngoài ra, theo Trump, “luôn hiểu rằng” Ukraine không thể trở thành thành viên NATO. Ông coi cuộc khủng hoảng Ukraine là sự thất bại của Tổng thống Hoa Kỳ đương nhiệm Joe Biden và cảnh báo về mối đe dọa leo thang xung đột hơn nữa.

6 Likes

9 tháng 1, 22:54

Nga hoan nghênh tư cách thành viên đầy đủ của Indonesia trong BRICS — Bộ Ngoại giao

Bộ này cho biết đơn ứng cử của Indonesia đã được đệ trình và được chấp thuận tạm thời trong hội nghị thượng đỉnh Johannesburg năm 2023, khi nhóm bắt đầu quá trình mở rộng ban đầu.

MOSCOW, ngày 9 tháng 1. /TASS/. Bộ Ngoại giao Nga cho biết trong một tuyên bố rằng Moscow hoan nghênh việc Indonesia trở thành thành viên chính thức của nhóm các quốc gia BRICS.

“Liên bang Nga hoan nghênh tư cách thành viên đầy đủ của Cộng hòa Indonesia trong BRICS, bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 năm 2025”, tuyên bố viết. “Tư cách thành viên BRICS của Indonesia sẽ thúc đẩy ảnh hưởng của nhóm và thúc đẩy sự gắn kết hơn nữa giữa các quốc gia ở Nam và Đông Bán cầu, nhằm tạo ra một trật tự thế giới công bằng và cân bằng hơn”.

Bộ này cho biết đơn ứng cử của Indonesia đã được đệ trình và tạm thời chấp thuận trong hội nghị thượng đỉnh Johannesburg năm 2023, khi nhóm này bắt đầu quá trình mở rộng ban đầu.

“Tuy nhiên, trước thềm cuộc bầu cử tổng thống sắp tới vào năm 2024, các đối tác Indonesia của chúng tôi đã quyết định không nộp hồ sơ dự thầu chính thức cho đến khi nguyên thủ quốc gia mới được bầu và chính phủ mới được bổ nhiệm”, Bộ này cho biết.

Bộ Ngoại giao Nga cho biết, yêu cầu của Indonesia về việc gia nhập nhóm các quốc gia BRICS với tư cách là thành viên chính thức đã được đệ trình trong thời gian Nga làm chủ tịch và được tất cả các thành viên chấp thuận.

“Trong thời gian Nga làm chủ tịch BRICS năm 2024, Cộng hòa Indonesia đã đệ trình yêu cầu chính thức xin gia nhập nhóm. Yêu cầu này đã được xem xét theo các hướng dẫn, tiêu chuẩn, tiêu chí và thủ tục về thành viên, được thông qua vào năm 2023. Đề xuất của Indonesia đã được tất cả các nước thành viên ủng hộ theo sự đồng thuận”, tuyên bố cho biết.

Bộ Ngoại giao Nga cho biết, Bộ này lưu ý rằng Indonesia là nền kinh tế lớn nhất và là quốc gia đông dân nhất ở Đông Nam Á, và rằng nước này “chia sẻ các giá trị của BRICS, [và] ủng hộ hợp tác đa phương trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau, minh bạch, thực dụng, đoàn kết và đồng thuận”.

6 Likes

9 tháng 1, 20:41

Putin cho biết đang có kế hoạch điện đàm với Tập Cận Bình của Trung Quốc sớm

Sau khi lắng nghe báo cáo của Bộ trưởng Văn hóa Nga Olga Lyubimova về sự hợp tác Nga-Trung trong ngành công nghiệp điện ảnh, tổng thống đã yêu cầu gửi thông tin cho ông dưới dạng văn bản để ông có thể tham khảo trong cuộc thảo luận sắp tới, nếu cần.

NOVO-OGARYOVO, ngày 9 tháng 1. /TASS/. Tổng thống Nga Vladimir Putin đã tuyên bố rằng ông sẽ sớm điện đàm với người đồng cấp Trung Quốc Tập Cận Bình.

“Tôi và người đồng nghiệp - nhà lãnh đạo Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa - sẽ sớm nói chuyện qua điện thoại”, Putin phát biểu khi bình luận về sự hợp tác Nga-Trung trong cuộc họp với các thành viên chính phủ Nga.

Sau khi lắng nghe báo cáo của Bộ trưởng Văn hóa Nga Olga Lyubimova về sự hợp tác Nga-Trung trong ngành công nghiệp điện ảnh, tổng thống đã yêu cầu gửi thông tin dưới dạng văn bản để ông có thể tham khảo trong cuộc thảo luận sắp tới, nếu cần.

Putin và Tập Cận Bình lần cuối nói chuyện vào tháng 10 năm 2024, khi họ tham dự hội nghị thượng đỉnh BRICS ở Kazan. Vào tháng 5 năm 2024, Putin đã có chuyến thăm cấp nhà nước tới Trung Quốc. Cuộc gọi điện thoại cuối cùng của hai nhà lãnh đạo là vào tháng 2 năm 2024.

5 Likes

10 tháng 1, 02:23

Các công ty bảo hiểm thiệt hại do hỏa hoạn ở California có thể lên tới 20 tỷ đô la — báo

Tờ Financial Times cho biết, dự kiến ​​tổn thất được bảo hiểm đã tăng gấp đôi so với mức 10 tỷ đô la ước tính một ngày trước đó, tiến độ hạn chế trong việc ngăn chặn và sự lây lan sang các khu vực lân cận được chỉ ra là lý do.

[LONDON, ngày 9 tháng 1. /TASS/. Tờ Financial Times] cho biết, trích dẫn một báo cáo từ JPMorgan, các công ty bảo hiểm sẽ phải chịu tổng thiệt hại lên tới 20 tỷ đô la do cháy rừng ở California so với tổng thiệt hại là 50 tỷ đô la .

Các khoản lỗ được bảo hiểm dự kiến ​​đã tăng gấp đôi so với con số 10 tỷ đô la ước tính một ngày trước đó trong bức thư mà ngân hàng gửi cho khách hàng. Tiến độ hạn chế trong việc ngăn chặn và sự lây lan sang các khu vực lân cận được chỉ ra là lý do.

JPMorgan cho biết, được hãng tin này trích dẫn, “Dự kiến ​​thiệt hại kinh tế do hỏa hoạn đã tăng gấp đôi kể từ hôm qua lên gần 50 tỷ đô la và chúng tôi ước tính rằng thiệt hại được bảo hiểm từ sự kiện này có thể vượt quá 20 tỷ đô la (thậm chí còn cao hơn nếu đám cháy không được kiểm soát)”.

Tổng diện tích cháy rừng ở Quận Los Angeles đã lên tới gần 11.000 ha, Cục Lâm nghiệp và Phòng cháy chữa cháy California báo cáo. Hơn 1.000 công trình đã bị phá hủy.

5 Likes

10 tháng 1, 01:28

Ủy ban Châu Âu và Slovakia sẽ thành lập nhóm công tác để giải quyết vấn đề khí đốt

Việc vận chuyển khí đốt của Nga tới châu Âu qua Ukraine đã bị dừng hoàn toàn vào ngày 1 tháng 1 do Kiev từ chối gia hạn thỏa thuận

BRUSSELS, ngày 9 tháng 1. /TASS/. Ủy ban châu Âu (EC) và Slovakia có ý định thành lập một nhóm công tác để giải quyết các vấn đề liên quan đến việc chấm dứt nguồn cung cấp khí đốt của Nga qua Ukraine, theo tuyên bố chung được đăng trên trang web của ủy ban sau cuộc gặp giữa Thủ tướng Slovakia Robert Fico và Ủy viên năng lượng Dan Jorgensen.

“Chúng tôi đã có một cuộc thảo luận tốt và cởi mở về tình hình năng lượng và những tác động rộng hơn của việc chấm dứt quá cảnh khí đốt của Nga qua Ukraine. Chúng tôi sẽ tiếp tục thảo luận chặt chẽ các vấn đề này, ở cả cấp độ chính trị và kỹ thuật, giữa Slovakia và Ủy ban châu Âu”, tuyên bố viết.

“Trong bối cảnh này, chúng tôi đã nhất trí thành lập một Nhóm công tác cấp cao để theo dõi và xác định các lựa chọn dựa trên đánh giá chung về tình hình và xem EU có thể giúp đỡ như thế nào”, thông cáo cho biết thêm.

Hoạt động vận chuyển khí đốt của Nga tới châu Âu qua Ukraine đã bị dừng hoàn toàn vào ngày 1 tháng 1 do Kiev từ chối gia hạn thỏa thuận.

6 Likes

10 tháng 1, 00:21

Indonesia sẽ sử dụng tư cách thành viên BRICS để thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm khai khoáng — chính thức

Yuliot Tanjung lưu ý rằng ông “vẫn đang nghiên cứu tác động có thể xảy ra của tư cách thành viên BRICS chính thức của Indonesia đối với ngành khai khoáng trong nước”

TOKYO, ngày 9 tháng 1. /TASS/. Thứ trưởng Bộ Năng lượng và Tài nguyên Khoáng sản Indonesia, Yuliot Tanjung, tuyên bố Indonesia sẽ sử dụng tư cách thành viên BRICS để xuất khẩu các sản phẩm khai khoáng.

“Chúng ta có thể tận dụng các thành viên BRICS cho thị trường của mình như Ấn Độ và Trung Quốc; họ có dân số đông và tiềm năng lớn”, ông phát biểu theo trích dẫn của hãng thông tấn Antara.

Vị quan chức này lưu ý rằng ông “vẫn đang nghiên cứu tác động có thể xảy ra của tư cách thành viên chính thức BRICS của Indonesia đối với ngành khai khoáng trong nước”.

Vào ngày 6 tháng 1, Brazil, với tư cách là nước giữ chức chủ tịch BRICS năm nay, đã tuyên bố Indonesia đã chính thức trở thành thành viên của khối này.

Các nhà lãnh đạo các nước thành viên cộng đồng đã chấp thuận ứng cử của quốc gia này tại hội nghị thượng đỉnh được tổ chức tại Johannesburg vào tháng 8 năm 2023.

Trước đó, Bộ Ngoại giao Nga đã báo cáo rằng từ năm 2025, một số quốc gia bao gồm Indonesia sẽ tham gia BRICS với tư cách là các quốc gia đối tác của cộng đồng. Các đối tác khác của hiệp hội là Belarus, Bolivia, Kazakhstan, Cuba, Malaysia, Thái Lan, Uganda và Uzbekistan.

6 Likes

9 tháng 1, 21:24

Sự ổn định của thị trường dầu mỏ vào năm 2025 phụ thuộc vào các nước OPEC+ — các chuyên gia

Trong khi đó, Alexey Belogoryev, giám đốc nghiên cứu tại Viện Năng lượng và Tài chính, lưu ý rằng không ai biết chắc chắn về sự cân bằng hiện tại trên thị trường dầu mỏ, đồng thời nói thêm rằng dữ liệu được công bố với sự chậm trễ đáng kể và thường được sửa đổi sau khi thực tế.

MOSCOW, ngày 9 tháng 1. /TASS/. Việc duy trì thị trường dầu mỏ ổn định vào năm 2025 sẽ là một nhiệm vụ khó khăn, với các nước OPEC+ nắm giữ chìa khóa, các chuyên gia được TASS phỏng vấn tin rằng. Do đó, nếu OPEC+ quyết định tăng sản lượng, điều này sẽ dẫn đến tình trạng dư cung, trong khi việc kéo dài thời gian cắt giảm sản lượng dầu có khả năng gây chia rẽ giữa các thành viên của liên minh.

“Thị trường dầu mỏ đang phải đối mặt với sự cân bằng đầy thách thức giữa cung và cầu vào năm 2025, vì nó sẽ phụ thuộc trực tiếp vào quyết định của OPEC+. Xem xét thành công của chính sách giảm sản lượng vào năm 2024, tổ chức này có thể sẽ tiếp tục kiểm soát khối lượng sản lượng”, người đứng đầu trung tâm phân tích của công ty môi giới châu Âu Mind Money Igor Isayev cho biết.

Trong khi đó, Alexey Belogoryev, giám đốc nghiên cứu tại Viện Năng lượng và Tài chính, lưu ý rằng không ai biết chắc chắn về sự cân bằng hiện tại trên thị trường dầu mỏ, đồng thời nói thêm rằng dữ liệu được công bố với sự chậm trễ đáng kể và thường được sửa đổi sau đó. “Những thay đổi về trữ lượng thương mại của dầu và các sản phẩm dầu mỏ ở các nước phát triển là công cụ duy nhất có sẵn để đánh giá ngay lập tức sự cân bằng. Đánh giá theo những điều này, thị trường vẫn cân bằng trong nửa cuối năm 2024 vì trữ lượng vẫn nằm trong phạm vi năm 2023 là 2,77-2,84 tỷ thùng”, ông cho biết.

Chuyên gia này cho biết, vào năm 2025, sự cân bằng trên thị trường dầu mỏ sẽ phụ thuộc chủ yếu vào các nước OPEC+. Đặc biệt, ông chỉ ra các ước tính cho thấy mức tăng dự kiến ​​trong nhu cầu toàn cầu trong năm nay là 1-1,2 triệu thùng/ngày sẽ được bù đắp bằng mức tăng sản lượng dầu thô bên ngoài OPEC+ (khoảng 1,3 triệu thùng/ngày). “Nếu OPEC+ từ bỏ kế hoạch tăng sản lượng trong những điều kiện đó, thị trường sẽ vẫn cân bằng ít nhiều. Nếu không, thặng dư ngày càng tăng sẽ bắt đầu xuất hiện trong quý 2. Tuy nhiên, nó có thể được trung hòa một phần bằng cách bổ sung kho dự trữ dầu chiến lược của Hoa Kỳ, vốn đã cạn kiệt mạnh trong những năm gần đây”, Belogoryev giải thích.

Ông cũng nhấn mạnh rằng OPEC+ sẽ bị chia rẽ vào năm 2025, lưu ý rằng nhiều quốc gia trong liên minh không sẵn sàng duy trì việc cắt giảm sản lượng tự nguyện vì nhiều lý do khác nhau và OPEC+ sẽ phải cho phép họ tăng sản lượng để thỏa thuận vẫn có hiệu lực.

Trong khi đó, bất kỳ sự tăng trưởng nào trong sản lượng của OPEC+ sẽ đẩy giá xuống, điều này sẽ khiến việc tăng sản lượng trở nên không khả thi về mặt kinh tế, Belogoryev cho biết. “Việc sản lượng của Iran giảm nếu Hoa Kỳ quay lại chính sách trừng phạt cứng rắn của mình, vốn đã bị cố tình làm suy yếu vào năm 2022-2024, có thể cung cấp một lối thoát một phần khỏi tình thế tiến thoái lưỡng nan này. Nhưng ngay cả trong trường hợp này, nó sẽ không phải là một loại thuốc kỳ diệu, hiệu ứng sẽ chỉ là ngắn hạn và bất kỳ quyết định nào trong tương lai sẽ khó khăn đối với OPEC+ khi kết hợp với sự bất đồng nội bộ ngày càng tăng”, chuyên gia kết luận.

5 Likes

Bức tranh kinh tế Việt Nam năm 2024 và dự báo năm 2025

Thứ 6 , 10/01/2025, 21:30

LTS: TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV vừa công bố Báo cáo kinh tế Việt Nam năm 2024 và dự báo năm 2025, chúng tôi xin đăng tải nguyên văn Báo cáo để quý độc giả tiện theo dõi.

Bức tranh kinh tế thế giới năm 2024

Kinh tế thế giới (KTTG) trong năm 2024 duy trì phục hồi khá ở mức khoảng 3,2% (tương đương năm 2023, theo IMF 10/2024), song không đồng đều, có sự phân hóa giữa các nước, giữa lĩnh vực dịch vụ và sản xuất. Lạm phát hạ nhiệt, tạo tiền đề thuận lợi để ngân hàng trung ương (NHTW) các nước hạ lãi suất, nới lỏng chính sách tiền tệ nhằm hỗ trợ tăng trưởng, ổn định của thị trường tài chính toàn cầu. Tuy nhiên, kinh tế thế giới vẫn còn nhiều rủi ro, thách thức; đặc biệt là căng thẳng địa chính trị ở Trung Đông, Ukraina còn phức tạp; cạnh tranh về thương mại - công nghệ, bảo hộ và phân mảnh thương mại gia tăng; rủi ro an ninh năng lượng, lương thực, an ninh mạng và thiên tai, khí hậu cực đoan vẫn thường trực, trong khi lạm phát và lãi suất dù giảm nhưng còn cao, khiến rủi ro tài chính – tiền tệ vẫn hiện hữu.

Kinh tế Việt Nam năm 2024 tăng trưởng cao với 7 (bảy) điểm sáng

Một là, Đảng, Nhà nước quyết tâm đột phá thể chế, cách mạng về tinh gọn tổ chức - bộ máy; Quốc hội, Chính phủ đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, nỗ lực tháo gỡ khó khăn, điểm nghẽn của nền kinh tế; thúc đẩy tăng trưởng, kiểm soát lạm phát

Đảng và Nhà nước thống nhất cao, quyết tâm đột phá thể chế - “điểm nghẽn của điểm nghẽn” và làm cách mạng về tinh gọn tổ chức - bộ máy, đẩy mạnh phòng chống lãng phí, góp phần tăng niềm tin của người dân và doanh nghiệp, khơi thông nguồn lực phát triển KT-XH nhanh, bao trùm và bền vững, gần đây nhất là Nghị quyết 57/NQ-TW (ngày 22/12/2024) về đột phá phát triển KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số…v.v.

Năm 2024, Quốc hội đã thông qua 29 Luật, 42 Nghị quyết quan trọng, tạo hành lang pháp lý đồng bộ, tháo gỡ rào cản, cải thiện môi trường đầu tư - kinh doanh, nổi bật là Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh BĐS…có hiệu lực sớm hơn 5 tháng cùng các quyết sách của Quốc Hội, Chính phủ tháo gỡ vướng mắc trong nhiều lĩnh vực; thông qua chủ trương đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam; khởi động lại việc đầu tư dự án điện hạt nhân Ninh Thuận…v.v. Chính phủ đã ban hành Chiến lược phát triển công nghiệp bán dẫn và nguồn nhân lực bán dẫn đến năm 2030, cùng nhiều Nghị quyết, Chỉ thị, Công điện, văn bản chỉ đạo, đôn đốc việc thi hành văn bản luật kịp thời và hiệu quả nhằm tháo gỡ khó khăn cho các thị trường đất đai, chứng khoán, tín dụng, xây dựng, bất động sản, năng lượng, tăng cường phân cấp, phân quyền, đẩy nhanh tiến độ các dự án đầu tư công, khơi thông nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế, ổn định vĩ mô và kiểm soát lạm phát…v.v.

Điểm nhấn là thực hiện chính sách tài khóa mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm, phối hợp đồng bộ, hài hòa với chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt và các chính sách kinh tế vĩ mô khác góp phần quan trọng hỗ trợ sản xuất - kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Theo đó, các hỗ trợ tài khóa như giãn, hoãn, giảm thuế - phí, lệ phí tiếp tục được triển khai (theo Bộ Tài chính, tổng giá trị danh nghĩa của các gói, chính sách hỗ trợ tài khóa lên đến 197,3 nghìn tỷ đồng và giá trị hỗ trợ thực chi từ NSNN lên đến gần 100 nghìn tỷ đồng). Chính sách tiền tệ duy trì mặt bằng lãi suất thấp, sử dụng đồng bộ nhiều giải pháp hóa giải áp lực tỷ giá, giá vàng; tiếp tục cho phép cơ cấu lại nợ, và giữ nguyên nhóm nợ đến hết năm 2024, riêng các khách hàng chịu ảnh hưởng bởi bão số 3 được áp dụng chính sách này đến hết 31/12/2025…v.v.

Chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng và cải cách thủ tục hành chính tiếp tục được đẩy mạnh nhằm theo kịp các xu hướng lớn, cải thiện môi trường đầu tư - kinh doanh gắn với phát triển hạ tầng số (chính thức khai trương mạng 5G), ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu trong nhiều hoạt động kinh tế - xã hội; tích cực tháo gỡ vướng mắc cho các dự án điện mặt trời, điện gió, đẩy nhanh vượt tiến độ hoàn thành đường dây truyền tải mạch 3…, đảm bảo cung ứng điện và tạo môi trường thuận lợi hơn cho đổi mới sáng tạo, chuyển đổi năng lượng và các động lực tăng trưởng mới.

Bức tranh kinh tế Việt Nam năm 2024 và dự báo năm 2025- Ảnh 1.

Kinh tế Việt Nam năm 2024 tăng trưởng cao với nhiều điểm sáng (Ảnh minh hoạ)

Hai là, hoàn thành và vượt 15/15 chỉ tiêu phát triển KTXH năm 2024; tăng trưởng quý sau cao hơn quý trước và GDP cả năm 2024 tăng trưởng vượt kế hoạch và dự báo: GDP Qúy 4/2024 ước tăng 7,55% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn 3 quý đầu năm (lần lượt ở mức 5,98%, 7,25% và 7,43%) và cao nhất so với cùng kỳ giai đoạn 2021-2024. Tăng trưởng kinh tế cả năm 2024 ước tăng 7,09%, vượt mục tiêu đề ra (6-6,5%) và cao hơn dự báo của các tổ chức quốc tế, là mức cao nhất ASEAN và thuộc Top 5 tăng trưởng cao của thế giới. Quy mô kinh tế Việt Nam ước đạt 476 tỷ USD, xếp hạng 33 thế giới, tăng 1 bậc so với năm 2023. Chất lượng tăng trưởng cải thiện tích cực với năng suất lao động (NSLĐ) ước tăng 5,88%, cao hơn mức 3,3% năm 2023 và cao hơn mức mục tiêu 4,8-5,3%, tỷ lệ vốn đầu tư so với tốc độ tăng trưởng (hệ số ICOR) ở mức 5,13 lần, thấp hơn mức 7,49 lần năm 2023.

Đạt được mức tăng trưởng cao như vậy một phần là do so với mức nền thấp của năm trước, phần khác là do các động lực tăng trưởng phục hồi. Về phía cung, động lực tăng trưởng chính từ phía cung là lĩnh vực công nghiệp chế biến - chế tạo và dịch vụ (lần lượt tăng 9,83% và 7,38%) và đóng góp 77,4% vào mức tăng trưởng chung, cùng với đó, nông nghiệp phục hồi khá (tăng 3,27%, cao hơn mức trước dịch) nhờ nỗ lực khắc phục kịp thời ảnh hưởng của bão số 3, đóng góp 0,39 điểm % (5,47%) vào mức tăng trưởng chung, góp phần đảm bảo an ninh lương thực, bình ổn giá hàng hóa thiết yếu, kiềm chế lạm phát, cũng như tăng xuất khẩu (kim ngạch xuất khẩu nông - lâm - thủy sản ước đạt 62,5 tỷ USD, tăng 18,7% so với 2023). Về phía cầu, động lực tăng trưởng chính là tiêu dùng cuối cùng tăng 6,57% so với cùng kỳ, đóng góp cao nhất vào tăng trưởng GDP (59,38%), cao nhất trong vòng trong vòng 5 năm; đầu tư (tích lũy tài sản) tăng 7,2%, đóng góp 36,53% - là mức tăng trưởng và đóng góp cao nhất trong vòng 4 năm; chênh lệch xuất - nhập khẩu (XNK) ròng đóng góp 4,09%.

Kim ngạch XNK đạt 786,3 tỷ USD, tăng 15,4%, với xuất khẩu tăng 14,3%, nhập khẩu tăng 16,7%, nhờ đà phục hồi của nhu cầu thế giới, nhất là tại các đối tác lớn của Việt Nam. Cán cân thương mại thặng dư 24,8 tỷ USD, nhưng do thâm hụt thương mại dịch vụ nên cán cân thương mại hàng hóa và dịch vụ tổng thể chỉ thặng dư 12,4 tỷ USD, thấp hơn mức 19,5 tỷ USD năm 2023, nhưng cũng là mức cao trong vòng 8 năm, góp phần ổn định tỷ giá, tăng dự trữ ngoại hối…v.v.

Giải ngân FDI đạt mức kỷ lục trong khi duy trì thu hút FDI mới với vốn đăng ký đạt 38,23 tỷ USD, giảm nhẹ 2,9% so với năm 2023, chủ yếu là do so với mức nền cao của năm 2023, giải ngân vốn FDI đạt 25,35 tỷ USD, tăng 9,4% so với năm 2023, là mức giải ngân giải ngân kỷ lục kể từ năm 2008. Cùng với đó, đầu tư tư nhân phục hồi, tăng 7,7%, cao gấp 2,8 lần mức tăng 2,7% của năm 2023 và cao hơn cùng kỳ các năm 2020-2021.

Tiêu dùng tiếp tục phục hồi, du lịch tăng mạnh,** với tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ năm 2024 tăng 8,8% nhờ lượng khách du lịch tăng mạnh và tiêu dùng cá nhân phục hồi. Việt Nam đã đón gần 18 triệu lượt khách quốc tế, tăng 39,5% so với năm 2023, gần bằng mức trước dịch; khách nội địa ước đạt 110 triệu lượt, tăng 1,6%; tổng thu du lịch ước đạt 840 nghìn tỷ đồng, tăng 23,8% so với cùng kỳ năm 2023.

Ba là, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát tốt: chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân năm 2024 tăng 3,63%, thấp hơn mục tiêu Quốc Hội giao (4-4,5%), cao hơn mức tăng 3,25% của năm 2023. Lạm phát cơ bản bình quân tăng 2,71% so với năm 2023, thấp hơn mức tăng của lạm phát tổng thể (3,63%) và thấp hơn năm 2023 (4,21%), cho thấy lạm phát tổng thể tăng chủ yếu là do hiệu ứng tăng giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý (giá điện, tiền lương, dịch vụ y tế và giáo dục…) và áp lực cầu kéo (tín dụng ước tăng 15,08%, cao hơn mức 13,78% năm 2023, cung tiền tăng khoảng 10,5%, thấp hơn mức tăng 12,5% năm 2023, nhưng cao hơn nhiều mức tăng 6,2% năm 2022); trong đó 5 nhóm mặt hàng gồm lương thực - thực phẩm, dịch vụ giáo dục, y tế, nhà ở - vật liệu xây dựng, hàng hóa và dịch vụ khác đóng góp đến 90,4% mức tăng CPI chung.

Các cân đối lớn được bảo đảm với mức nợ công (theo Bộ Tài chính, khoảng 37% GDP), nợ nước ngoài (33% GDP), thâm hụt ngân sách (3,4% GDP), nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ (21% GDP) đều dưới ngưỡng Quốc Hội cho phép và thấp hơn mức trung bình của thế giới và các nước cùng xếp hạng tín nhiệm; an ninh lương thực, an ninh năng lượng và an sinh xã hội được bảo đảm.

Bốn là, mặt bằng lãi suất cơ bản ổn định, tín dụng khả quan, tỷ giá và nợ xấu tăng trong tầm kiểm soát: lãi suất cho vay tiếp tục giảm nhẹ (-0,5%) so với cuối năm 2023 nhờ thanh khoản hệ thống cơ bản ổn định với sự can thiệp kịp thời của NHNN và nỗ lực giảm chi phí, giảm biên lợi nhuận của các TCTD. Tín dụng ước tăng 15,08% so với cuối năm 2023 nhờ sự khởi sắc của các hoạt động đầu tư, tiêu dùng và thị trường bất động sản (BĐS). Tỷ giá liên ngân hàng tăng khoảng 5%, chủ yếu là do đồng USD tăng giá trên thị trường quốc tế, chênh lệch lãi suất USD-VND vẫn còn do Fed giãn tiến độ giảm lãi suất, nhu cầu ngoại tệ cuối năm tăng cao hơn, tuy nhiên, tỷ giá vẫn trong tầm kiểm soát nhờ nguồn cung ngoại tệ dồi dào. Nợ xấu nội bảng (không gồm 5 ngân hàng thuộc diện kiểm soát đặc biệt) đến cuối tháng 10/2024 ở mức 1,96% tổng dư nợ, tăng so với mức 1,69% cuối năm 2023. Tuy nhiên, nợ xấu nội bảng, nợ bán VAMC chưa xử lý và nợ tiềm ẩn thành nợ xấu (không bao gồm 5 ngân hàng thuộc diện kiểm soát đặc biệt) chiếm 3,28% tổng dư nợ, giảm nhẹ so với mức 3,36% cuối năm 2023 cho thấy nợ xấu vẫn trong tầm kiểm soát. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp và thị trường BĐS đang dần phục hồi nhờ cú huých từ các luật mới, các quyết sách liên quan của Quốc Hội, Chính phủ (Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản, Nghị quyết của Quốc Hội về thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất, đẩy mạnh phát triển nhà ở xã hội…); công tác quy hoạch, đầu tư công được quan tâm thúc đẩy…v.v.

Năm là, thu ngân sách Nhà nước (NSNN) tăng khá cùng với đà phục hồi của sản xuất, tiêu dùng và xuất – nhập khẩu (XNK): thu NSNN ước đạt 119,8% dự toán năm, tăng 16,2% so với năm 2023 nhờ đà phục hồi của sản xuất, tiêu dùng và XNK cũng như việc đa dạng hóa nguồn thu, tạo dư địa cho thực thi chính sách tài khóa mở rộng và phục vụ công tác cải cách tiền lương, tinh gọn tổ chức - bộ máy đang tiến hành. Tuy nhiên, cần lưu ý là chi NSNN chỉ bằng 86,4% dự toán năm và tăng 5,7% so với cùng kỳ năm 2023, chủ yếu là do chi đầu tư phát triển mới bằng 78,1% dự toán, giảm 8,7% so với cùng kỳ 2023 (giải ngân đầu tư công còn chậm) và một số nguồn thu ngân sách còn thiếu bền vững.

Sáu là, tình hình doanh nghiệp có nhiều cải thiện: cả năm 2024 có 233,4 nghìn doanh nghiệp gia nhập thị trường, tăng 7,1% so với cùng kỳ; gấp 1,2 lần số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường là 197,9 nghìn doanh nghiệp. Khảo sát của TCTK và các hiệp hội cho thấy niềm tin của doanh nghiệp vào triển vọng tốt lên của SXKD trong quý 4/2024 đều cao hơn so với quý 3/2024 (trong đó các DN ngành chế biến - chế tạo có tỷ lệ lạc quan cao nhất). Chỉ số niềm tin kinh doanh (BCI) do EuroCham khảo sát các doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam tăng từ 46,3 điểm vào quý 4/2023 lên 61,8 điểm trong quý 4/2024, mức cao nhất trong hơn hai năm qua, khẳng định sự phục hồi tích cực của niềm tin kinh doanh.

Bảy là, hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh. Tính đến cuối năm 2024, Việt Nam đã nâng cấp quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với 9 quốc gia; đã ký kết và đàm phán 19 FTA; tích cực tham gia nhiều diễn đàn, cơ chế đa phương quan trọng như Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) Đại Liên (Trung Quốc) 2024, Diễn đàn Tương lai ASEAN (AFF) 2024, APEC 2024, hội nghị BRICS…góp phần nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam, tạo cơ hội thúc đẩy hợp tác thương mại, đầu tư và du lịch, phát triển các lĩnh vực mới như kinh tế số, kinh tế xanh, KHCN, công nghiệp bán dẫn…v.v.

Nỗ lực điều hành và kết quả phát triển KTXH của Việt Nam được các tổ chức quốc tế đánh giá cao với việc S&P và Moody’s (9/2024) đã nâng hệ số tín nhiệm quốc gia Việt Nam thêm một bậc, duy trì triển vọng ở mức Ổn định trong dài hạn; Việt Nam tăng 2 bậc về Chỉ số đổi mới - sáng tạo toàn cầu năm 2024 (lên vị trí 44/133 thế giới và thứ 4/10 ASEAN), chỉ số phát triển Chính phủ điện tử năm 2024 tăng 15 bậc so với năm 2022, xếp hạng 71/193 thế giới, thuộc nhóm Cao, tiếp tục được Mỹ công nhận Việt Nam không thao túng tiền tệ trong 2 kỳ đánh giá năm 2024; chỉ số tự do kinh tế tăng 13 bậc, lên vị trí 59/176 thế giới; giá trị thương hiệu quốc gia đạt 507 tỷ USD, xếp thứ 32/193, tăng 1 bậc so với năm 2023…v.v.

Mặt bằng lãi suất năm 2024 cơ bản ổn định, tín dụng khả quan, tỷ giá và nợ xấu tăng trong tầm kiểm soát (ảnh minh hoạ)

Năm rủi ro, thách thức chính năm 2024 và còn tiếp diễn trong năm 2025

Một là, rủi ro, thách thức từ bên ngoài vẫn hiện hữu, bao gồm: (i) khủng hoảng địa chính trị gia tăng, khó đoán định (đặc biệt xung đột tại Ukraina, Trung Đông…), (ii) cạnh tranh chiến lược về thương mại, công nghệ giữa các nước lớn còn phức tạp, phân mảnh, bảo hộ thương mại gia tăng; (iii) rủi ro thay đổi về chính sách đối ngoại, an ninh, kinh tế - xã hội sau các cuộc bầu cử năm 2024 (đặc biệt là nhiệm kỳ D. Trump 2.0); (iv) một số đối tác lớn của Việt Nam (như Châu Âu, Trung Quốc, Nhật Bản…) tăng trưởng chậm lại, tác động tiêu cực đến xuất khẩu, thu hút đầu tư, du lịch của Việt Nam; (iv) lạm phát, lãi suất toàn cầu giảm chậm hơn so với dự kiến do các chính sách bảo hộ thương mại, áp thuế nhập khẩu của Mỹ sẽ gia tăng áp lực lạm phát, lãi suất và tỷ giá và thị trường tài chính – tiền tệ của Việt Nam; (v) nguy cơ rủi ro an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh mạng, xâm nhập mặn và thiên tai, khí hậu cực đoan vẫn thường trực.

Hai là, các động lực tăng trưởng truyền thống phục hồi nhưng chưa đồng đều, còn thấp hơn so với trước dịch và chưa bền vững. Đầu tư tư nhân phục hồi khá (tăng 7,7%) song thấp hơn nhiều mức tăng 15-17% của giai đoạn trước dịch và thấp hơn khu vực FDI (10,6%); doanh thu bán lẻ (loại trừ yếu tố giá) tăng 5,9%, chỉ bằng 66% mức tăng trung bình của giai đoạn trước dịch, doanh thu du lịch lữ hành và lưu trú - ăn uống vẫn thấp hơn cùng kỳ năm 2023 (52,5% và 14,7%) và chưa tương xứng với mức tăng mạnh của thu hút du lịch quốc tế (+39,5%). Đầu tư tăng 7,2% và tiêu dùng cuối cùng tăng 6,57% cao hơn năm 2023 nhưng vẫn thấp hơn mức trước dịch (tương ứng là 7,48% và 6,79% năm 2019); chênh lệch XNK ròng đóng góp còn khiêm tốn vào tăng trưởng GDP (4,09%) khi cán cân thương mại dịch vụ vẫn thâm hụt. Giải ngân đầu tư công còn chậm, không đồng đều (chỉ tăng 5,7% so với cùng kỳ, mới chỉ bằng 84,6% kế hoạch năm, hết tháng 1/2025 có thể đạt 90-92%, chưa đạt mục tiêu 95% kế hoạch; nhiều bộ ngành, địa phương giải ngân thấp hơn bình quân cả nước). Chất lượng tăng trưởng dù đã cải thiện song chưa đạt kỳ vọng (khi NSLĐ bình quân giai đoạn 2021-2024 chỉ tăng 4,5%, thấp hơn nhiều so với mục tiêu là 6,5%/năm; hệ số ICOR dù giảm so với giai đoạn 2020-2021 song bình quân giai đoạn 2021-2024 vẫn ở mức cao 8,3 lần, gấp hơn 2 lần mức khuyến cáo của IMF, hệ số ICOR của khu vực tư nhân cao nhất trong 3 khu vực kinh tế…).

Bên cạnh đó, thể chế cho các động lực tăng trưởng mới, nhất là thể chế cho phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và chuyển đổi năng lượng (đặc biệt là cơ chế thử nghiệm sandbox cho Fintech và kinh tế tuần hoàn; danh mục phân loại xanh, Đề án phát triển thị trường tín chỉ carbon; tiêu chí đo lường quy mô, đóng góp của kinh tế số vào tăng trưởng theo chuẩn quốc tế…) còn chậm ban hành so với yêu cầu phát triển.

Ba là, hoạt động doanh nghiệp còn nhiều khó khăn dù đã dịu bớt. Năm 2024, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn vẫn tăng 12,4% và số doanh nghiệp hoàn tất giải thể tăng 20% so với cùng kỳ, tuy giảm so với năm trước nhưng còn cao. Qua khảo sát cho thấy khối doanh nghiệp còn gặp phải bốn khó khăn chính: các vướng mắc về pháp lý, thủ tục (như định giá đất, đấu thầu, giải phóng mặt bằng, hoàn thuế VAT…) còn chậm giải quyết; chi phí đầu vào (nhất là chi phí logistics, tiền lương, tiền điện, thuê mặt bằng…) tăng, đơn hàng phục hồi không đồng đều và thiếu bền vững; một số ngành nghề còn thiếu lao động, năng suất thấp; yêu cầu số hóa và xanh hóa ngày càng cao trong khi năng lực cạnh tranh và thích ứng của doanh nghiệp còn hạn chế…v.v.

Bốn là, thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN), thị trường bất động sản (BĐS) phục hồi chậm, tiềm ẩn rủi ro: theo VIS Rating, tổng giá trị TPDN chậm thanh toán đến tháng 11/2024 chiếm 15,3% dư nợ TPDN toàn thị trường, trong đó nhóm ngành BĐS chiếm tỷ trọng lớn nhất, khoảng 60% giá trị chậm trả. Năm 2025, ước tính sẽ có khoảng 213 nghìn tỷ đồng TPDN đáo hạn (theo HNX), vẫn chủ yếu là TPDN bất động sản trong khi thị trường BĐS phục hồi chậm với giá bất động sản (nhất là chung cư, đất nền) tăng nhanh, vượt khả năng chi trả của đa số người dân có nhu cầu thực.

Năm là, tình trạng lãng phí còn chậm khắc phục: tiến trình cơ cấu lại nền kinh tế, gồm cả các DNNN và các tổ chức tín dụng yếu kém còn chậm so với yêu cầu, làm tăng nợ xấu, nợ tồn đọng, chi phí duy trì. Cùng với đó, tình trạng lãng phí về đất đai, BĐS, tài sản công, đầu tư công, tài nguyên…gây ra nhiều hệ lụy tiêu cực, khiến việc huy động và phân bổ nguồn lực khó đạt hiệu quả cao và tốn kém, có thể bỏ lỡ thời cơ, kìm hãm sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới, đòi hỏi quyết liệt hơn thời gian tới.

Dự báo kinh tế Việt Nam năm 2025

Về triển vọng, tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2025 được các tổ chức quốc tế dự báo duy trì ở mức tương đương năm 2024 (khoảng 3-3,2%), trong khi lạm phát (CPI bình quân) giảm về mức 3-3,5% (so với mức 4-4,5% năm 2024) khi giá hàng hóa và năng lượng tương đối ổn định. Thương mại và đầu tư FDI toàn cầu cũng được dự báo phục hồi khá, tăng 2,5-3,5%. Tuy nhiên, nhiều rủi ro, bất định còn hiện hữu và diễn biến phức tạp như nêu trên.

Ở kịch bản tích cực, tăng trưởng GDP Việt Nam năm 2025 có thể đạt trên 9%

Với Việt Nam, mục tiêu quyết tâm tăng tốc, bứt phá trong năm 2025, tạo tiền đề tăng trưởng cao trong giai đoạn tiếp theo, đã được xác định; Nhóm nghiên cứu dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2025 với 3 kịch bản.

- Kịch bản cơ sở (xác suất 60%): cùng với đà phục hồi tăng trưởng toàn cầu và tiếp nối đà tăng trưởng cao của năm 2024; với quyết tâm đột phá thể chế, tiến hành cách mạng về tinh gọn tổ chức - bộ máy, niềm tin của DN và người dân được củng cố mạnh mẽ; các động lực tăng trưởng (cả truyền thống và mới) được phát huy, khai thác hiệu quả cao hơn; ổn định vĩ mô được giữ vững, các cân đối lớn được bảo đảm, dự báo kinh tế Việt Nam tăng trưởng khoảng 8% năm 2025. Trong đó, xuất khẩu tăng khoảng 12%, đầu tư (gồm cả đầu tư công và tư) và tiêu dùng tăng cao hơn (từ 10-12%) so với năm 2024; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng khoảng 10-12%; năng suất lao động tăng 6-6,5%, đóng góp của năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng GDP khoảng 45-48%; kinh tế số chiếm khoảng 16-18% GDP; hệ số ICOR ở mức 5-5,5 lần (thấp hơn giai đoạn 2011-2019)…v.v.

- Kịch bản tích cực (20%): tăng trưởng GDP có thể cao hơn, đạt 9-9,5% trong điều kiện tăng trưởng kinh tế toàn cầu cao hơn dự báo; các động lực tăng trưởng phát huy hiệu quả cao hơn; cơ cấu lại nền kinh tế, các đột phá chiến lược được thúc đẩy; năng lực cạnh tranh, chất lượng tăng trưởng cải thiện rõ nét (đóng góp của TFP vào tăng trưởng GDP khoảng 48-50%, kinh tế số chiếm khoảng 18-20%, năng suất lao động tăng 6,5-7%…).

- Kịch bản tiêu cực (20%): nếu các rủi ro bên ngoài gia tăng và tác động tiêu cực hơn, kinh tế thế giới tăng trưởng chậm hơn dự báo, xung đột địa chính trị leo thang, chiến tranh thương mại – công nghệ phức tạp (các nước đáp trả lẫn nhau), biến đổi khí hậu diễn biến khó lường, tác động tiêu cực đến xuất khẩu, đầu tư và tiêu dùng của Việt Nam trong khi các đột phá chiến lược, các động lực tăng trưởng chưa phát huy hiệu quả như kỳ vọng hoặc chỉ ở mức tương đương năm 2024, khi đó tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2025 dự báo ở mức 7-7,5%.

Bức tranh kinh tế Việt Nam năm 2024 và dự báo năm 2025- Ảnh 4.

Về lạm phát: dự báo CPI bình quân năm 2025 tăng khoảng 3,5-4%, có thể ở cận trên (4%) khi yếu tố chi phí đẩy (chủ yếu là tiếp tục tăng giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý theo lộ trình) và yếu tố cầu kéo (cung tiền và vòng quay tiền dự kiến tăng cao hơn năm 2024 đáp ứng nhu cầu vốn cho tăng trưởng kinh tế cao hơn). Tuy nhiên, lạm phát năm 2025 sẽ vẫn trong tầm kiểm soát nhờ lạm phát toàn cầu hạ nhiệt (dù chậm hơn do chính sách áp thuế nhập khẩu của chính quyền mới của Mỹ), nguồn cung hàng hóa - dịch vụ thiết yếu trong nước được bảo đảm; tỷ giá tăng trong tầm kiểm soát, lãi suất cơ bản ổn định và phối hợp chính sách ngày càng tốt hơn.

Sáu kiến nghị

Để đạt được mục tiêu tăng trưởng cao, kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô năm 2025 như nêu trên, Nhóm nghiên cứu có 6 kiến nghị như sau:

Một là, tiếp tục đẩy mạnh đột phá về thể chế, cách mạng về tinh gọn tổ chức - bộ máy", chống lãng phí… với những thành công quan trọng ban đầu, tạo cơ sở và niềm tin tiếp theo, thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bao trùm và bền vững, theo đó cần: sớm hoàn thành các đề án sáp nhập, cơ cấu lại, tinh gọn tổ chức – bộ máy và tổ chức thực hiện, đảm bảo tiến độ, chất lượng và thực chất; tăng cường tuyên truyền về các chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước để phát triển bứt phá trong kỷ nguyên mới, đưa đất nước phát triển nhanh, thịnh vượng, bao trùm và bền vững; đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, nhất là lãng phí (tập trung vào 5 lĩnh vực: đất đai, BĐS, tài sản công, đầu tư công và tài nguyên); thực thi cơ chế, chính sách đột phá để xây dựng đội ngũ cán bộ công viên chức có đủ tâm và tầm, tinh thần trách nhiệm cao cùng với tiến trình cải cách tiền lương, cơ chế, chính sách tạo động lực, bảo vệ cán bộ dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.

Hai là, tiếp tục thực hiện đồng bộ, hiệu quả 5 đột phá chiến lược (thể chế, kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực - đặc biệt là nhân lực chất lượng cao, KHCN – chuyển đổi số, và chống lãng phí): thực hiện có hiệu quả chương trình đột phá thể chế, tinh gọn tổ chức – bộ máy, quyết liệt cải thiện môi trường đầu tư – kinh doanh nhằm kịp thời tháo gỡ các rào cản, vướng mắc về pháp lý, hoàn thuế VAT, định giá đất, tiếp cận đất đai, vốn,…; sớm hoàn thiện khung pháp lý cho phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và chuyển đổi năng lượng như cơ chế thử nghiệm - Sandbox, cơ chế thí điểm cho Fintech và kinh tế tuần hoàn, Đề án phát triển thị trường tín chỉ carbon, danh mục phân loại xanh…; đẩy nhanh phát triển hạ tầng giao thông, hạ tầng số và năng lượng sạch (các tuyến giao thông liên vùng, đường sắt kết nối với Trung Quốc, đường sắt cao tốc Bắc - Nam, dự án điện hạt nhân, triển khai hiệu quả Quy hoạch điện VIII, các nghị định về năng lượng tái tạo…); tập trung phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, theo đó cần thay đổi triết lý giáo dục – đào tạo trong kỷ nguyên mới, trong đó có việc triển khai hiệu quả Đề án phát triển nhân lực bán dẫn và chủ trương phát triển công nghiệp văn hóa đã ban hành)…v.v.

Ba là, tập trung làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống (xuất khẩu, đầu tư - nhất là đầu tư tư nhân và đầu tư công, và tiêu dùng); khai thác tốt hơn các động lực tăng trưởng mới (kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, các ngành công nghiệp mới như chip bán dẫn, AI, chuỗi khối, vật liệu mới…): triển khai hiệu quả các chính sách về giãn, hoãn, giảm thuế, phí, và các chính sách tín dụng - tiền tệ; đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tận dụng tốt hơn các FTA đã ký; phát huy hiệu quả ngoại giao kinh tế nhằm tăng cường huy động nguồn lực tài chính xanh, tài chính bền vững trong và ngoài nước; chú trọng phát triển kinh tế tư nhân, nâng cao năng lực cạnh tranh của DN Việt Nam (sớm ban hành thay thế Nghị quyết 10-NQ/TW/2017 về phát triển kinh tế tư nhân; sửa luật Luật hỗ trợ DN vừa và nhỏ 2017; cơ chế hỗ trợ hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp…); (iv) Đẩy mạnh liên kết vùng, thúc đẩy tăng trưởng của các đầu tàu kinh tế như Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng, Hải Phòng, Cần Thơ, Huế…tăng tính lan tỏa trong vùng và cả nước…v.v.

Bốn là, nâng cao hiệu quả trong điều hành, phối hợp chính sách (nhất là giữa chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ, chính sách giá cả và các chính sách vĩ mô khác) nhằm thúc đẩy tăng trưởng cao, kiểm soát lạm phát, ổn định vĩ mô, bình ổn tỷ giá, thị trường tài chính - tiền tệ, đảm bảo an sinh xã hội. Theo đó, chính sách tài khóa tiếp tục giữ vai trò chủ lực, mở rộng có trọng tâm, trọng điểm, gắn với đẩy mạnh giải ngân đầu tư công; chính sách tiền tệ theo hướng chủ động, linh hoạt, tăng khả năng tiếp cận tín dụng gắn với kiểm soát rủi ro và xử lý nợ xấu; phát triển mạnh mẽ thị trường tài chính, nhất là thị trường TPDN, trong đó chú trọng ưu tiên nâng hạng thị trường chứng khoán trong năm 2025 và kiểm soát rủi ro hệ thống tài chính - BĐS; có lộ trình phù hợp khi tăng giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý; đảm bảo cung ứng đủ các mặt hàng thiết yếu.

Năm là, chú trọng đẩy nhanh cơ cấu lại nền kinh tế nhằm thu hút và phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn, nhất là cổ phần hóa và thoái vốn DNNN, xử lý dứt điểm các TCTD yếu kém, tăng vốn cho các TCTD Nhà nước nhằm tăng khả năng tiếp cận vốn, giảm rủi ro, tăng tính lành mạnh và hiệu quả của thị trường…v.v.

Cuối cùng, quan tâm nâng cao chất lượng tăng trưởng, trong đó tập trung tăng năng suất lao động (sớm thành lập Ủy ban Năng suất Quốc gia, coi việc tăng năng suất lao động là một tiêu chí đánh giá cán bộ, tổ chức…), tăng mức đóng góp của TFP trong tăng trưởng GDP; xây dựng chiến lược và giải pháp cụ thể nhằm tăng tính độc lập, tự chủ, tự cường và nâng cao sức chống chịu của nền kinh tế và doanh nghiệp Việt.

H. Kim (ghi theo Báo cáo của Nhóm tác giả)

8 Likes

Báo cáo việc làm Mỹ tháng 12 tăng vượt dự đoán, tỷ lệ thất nghiệp bất ngờ thay đổi, Dow Jones lập tức giảm gần 700 điểm vì khả năng Fed cắt giảm lãi suất ngày một ít

Thứ 7 , 11/01/2025, 08:42

Kết phiên ngày 10/1, các chỉ số chính giảm sau khi báo cáo việc làm cao hơn dự đoán, làm thay đổi kỳ vọng của Phố Wall về việc Cục Dự trữ Liên bang (Fed) sẽ cắt giảm lãi suất nhiều trong năm nay.

Báo cáo việc làm Mỹ tháng 12 tăng vượt dự đoán, tỷ lệ thất nghiệp bất ngờ thay đổi, Dow Jones lập tức giảm gần 700 điểm vì khả năng Fed cắt giảm lãi suất ngày một ít

Chỉ số trung bình công nghiệp Dow Jones giảm 696,75 điểm, tương đương 1,63%, chốt phiên ở mức 41.938,45 điểm. S&P 500 giảm 1,54% xuống 5.827,04 điểm, trong khi Nasdaq Composite giảm 1,63% xuống 19.161,63 điểm. Mức giảm trong phiên ngày thứ Sáu đã đẩy các chỉ số chính vào vùng đỏ.

Báo cáo việc làm Mỹ tháng 12 tăng vượt dự đoán, tỷ lệ thất nghiệp bất ngờ thay đổi, Dow Jones lập tức giảm gần 700 điểm vì khả năng Fed cắt giảm lãi suất ngày một ít- Ảnh 1.

Theo báo cáo ngày 10/1 của Cục Thống kê Lao động Mỹ, số việc làm phi nông nghiệp tăng vọt 256.000 trong tháng 12. Con số này tăng so với 212.000 việc làm của tháng 11 và cao hơn dự đoán của các nhà kinh tế được Dow Jones thăm dò là 155.000 việc làm.

Số việc làm phi nông nghiệp hàng tháng tại Mỹ, từ tháng 1/2022 đến tháng 12/2024.

Việc làm tăng chủ yếu trong các lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ (tăng 46.000 việc làm), giải trí và khách sạn (tăng 43.000 việc làm) và chính phủ (tăng 33.000 việc làm). Ngành bán lẻ cũng ghi nhận mức tăng 43.000 việc làm mới khi bước vào mùa lễ hội.

Tỷ lệ thất nghiệp tháng cuối cùng trong năm 2024 giảm nhẹ xuống 4,1%, thấp hơn so với dự đoán là 4,2%. Ngoài ra, tỷ lệ người lao động thoái chí và làm bán thời gian vì lý do kinh tế đã giảm 0,2% so với tháng trước, ở mức 7,5%. Đây cũng là mức thấp nhất kể từ tháng 6 năm 2024.

Tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ từ tháng 1/2021 đến tháng 12/2024.

Sau báo cáo, lợi suất trái phiếu kho bạc kỳ hạn 10 năm tăng vọt lên mức cao nhất kể từ cuối năm 2023.

Chiến lược gia thị trường cấp cao Scott Wren của Viện Đầu tư Wells Fargo cho biết: “Đây là tin tốt cho nền kinh tế nhưng không tốt cho thị trường, ít nhất là ở hiện tại. Tuy nhiên, mức tăng bất ngờ so với dự báo không làm thay đổi quan điểm của chúng tôi rằng thị trường lao động có thể sẽ giảm tốc trong các quý tới”.

Chuyên gia kinh tế cấp cao Dan North của Allianz Trade cho biết: “Đây là một báo cáo nóng hổi. (Chủ tịch Fed) Jerome Powell đang thở phào nhẹ nhõm vì công việc của ông ấy trở nên dễ dàng hơn. Lạm phát đã không thay đổi trong nhiều tháng, vì vậy không có động lực nào để cắt giảm lãi suất. Bây giờ, ta nhận được báo cáo việc làm này thì ông lại càng không cần cắt giảm lãi suất để kích thích nền kinh tế”.

Các nhà giao dịch dự đoán 97% khả năng Fed sẽ giữ nguyên lãi suất tại cuộc họp vào cuối tháng 1. Họ cũng cho rằng ngân hàng trung ương sẽ giữ nguyên lãi suất tại cuộc họp vào tháng 3.

Theo Công cụ FedWatch của CME Group, khả năng cắt giảm lãi suất vào tháng 3 đã giảm xuống còn khoảng 25% sau báo cáo việc làm, giảm so với xác suất 41% một ngày trước đó. Fed đã cắt giảm lãi suất chuẩn của mình 0,25 điểm phần trăm vào tháng 12.

Cổ phiếu giảm trong phiên ngày 10/1 còn do chỉ số tâm lý người tiêu dùng của Đại học Michigan báo hiệu mối lo ngại về lạm phát. Chỉ số chung đạt 73,2 điểm trong tháng 1, thấp hơn ước tính 74 điểm của Dow Jones.

Chiến lược gia Adam Turnquist của LPL Financial cho biết lãi suất biến động và thị trường chứng khoán bán tháo. Nhưng nền kinh tế đang hoạt động tốt hơn dự kiến. Với tiềm năng doanh thu tốt và ít rủi ro suy thoái, thị trường sẽ tăng trong dài hạn.

Theo CNBC

6 Likes

Thứ trưởng Bộ KH&ĐT: Mục tiêu tăng trưởng kinh tế 2025 đạt 8% hoàn toàn khả thi

Thứ 6 , 10/01/2025, 16:00

Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT) Nguyễn Đức Tâm khẳng định, với quyết tâm cao, mục tiêu tăng trưởng kinh tế 8% trong năm 2025 là hoàn toàn khả thi.

Thứ trưởng Bộ KH&ĐT: Mục tiêu tăng trưởng kinh tế 2025 đạt 8% hoàn toàn khả thi

Tại cuộc họp báo thường kỳ Chính phủ ngày 8/1, Thứ trưởng Bộ KH&ĐT Nguyễn Đức Tâm cho biết, tăng trưởng GDP năm 2024 đạt 7,09%, vượt mục tiêu đặt ra (6,5%) dù ảnh hưởng của bão Yagi và hoàn lưu bão đổ bộ các tỉnh miền Bắc hồi tháng 9 khiến GDP giảm 0,8 điểm phần trăm.

“Đây là cơ sở, là tiền đề quan trọng để năm 2025 chúng ta đạt mục tiêu GDP tăng trưởng 8%” , ông Tâm nói.

Thứ trưởng Bộ KH&ĐT Nguyễn Đức Tâm phân tích các động lực tăng trưởng trong năm 2025. (Ảnh: VGP/NB)

Tại Nghị quyết số 158/2024, Quốc hội quyết nghị chỉ tiêu tốc độ tăng GDP của năm 2025 là khoảng 6,5 - 7% và phấn đấu khoảng 7 - 7,5%. Tuy nhiên, trong bối cảnh, tình hình mới, Chính phủ yêu cầu các cấp, các ngành, các địa phương trong chỉ đạo, điều hành, quản lý phải phấn đấu tăng trưởng ít nhất 8% hoặc 2 con số trong điều kiện thuận lợi hơn (cao hơn mục tiêu Quốc hội đề ra).

Yêu cầu tăng trưởng GRDP rất cao đối với các địa phương “đầu tàu” như Hà Nội, TP.HCM, Bình Dương, Đồng Nai…, tối thiểu ở mức 8-10%. Thứ trưởng cho rằng, việc các địa phương này tăng trưởng cao hơn mức đạt được của năm 2024 sẽ là động lực rất lớn đối với tăng trưởng cả nước.

Theo ông, hoàn thiện hệ thống thể chế là yếu tố mang tính “đột phá của đột phá”, cùng với việc tinh gọn bộ máy quản lý và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động. Đây sẽ là những động lực quan trọng, góp phần thúc đẩy nền kinh tế đạt được nhiều kết quả tích cực trong thời gian tới.

Cơ sở tiếp theo được Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư chỉ ra là thúc đẩy tăng trưởng gắn với ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế. Trong đó, ông đặc biệt lưu ý việc tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ theo hướng chủ động, linh hoạt, kịp thời và hiệu quả, phối hợp đồng bộ, hài hoà, chặt chẽ với chính sách tài khóa mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm.

Trong năm 2024, mặc dù chúng ta thực hiện miễn, giảm, hoãn thuế khoảng 197.000 tỷ đồng, cuối năm vẫn tăng thu khoảng 337.000 tỷ đồng. Theo ông Tâm, điều này cho thấy việc tạo điều kiện cho doanh nghiệp sẽ giúp tăng thu, doanh nghiệp sẽ quay lại hoạt động và tin tưởng vào nền kinh tế hơn.

Vì thế, ngay từ đầu năm 2025, Chính phủ đã ban hành miễn, giảm, hoãn thuế cho doanh nghiệp, người dân đến hết tháng 6/2025.

Thứ trưởng Bộ KH&ĐT cho biết, kế hoạch vốn đầu tư công năm 2025 là khoảng 295.000 tỷ đồng. Cộng với số chuyển tiếp của năm 2024 thì cả năm 2025, số vốn đầu tư công cần giải ngân sẽ là hơn 300.000 tỷ đồng (12 tỷ USD). Việc giải ngân hết số vốn này sẽ tạo ra động lực thu hút các thành phần kinh tế khác, thúc đẩy động lực tăng trưởng.

Theo Thứ trưởng Nguyễn Đức Tâm, kích cầu tiêu dùng trong nước sẽ là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế năm 2025. Một trong những trọng tâm là phát triển du lịch, với mục tiêu thu hút từ 120 - 130 triệu lượt khách nội địa và 20 triệu lượt khách quốc tế, góp phần tạo động lực mạnh mẽ cho các ngành liên quan.

Xuất khẩu cũng sẽ được đẩy mạnh thông qua việc tận dụng tối đa lợi thế từ 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) đã được ký kết.

“Để đạt được tăng trưởng cao và bền vững, cần huy động tối đa các nguồn lực xã hội, trong đó đặc biệt chú trọng khai thác hiệu quả nguồn lực từ khu vực doanh nghiệp nhà nước và phát triển mạnh mẽ khu vực doanh nghiệp tư nhân.

Bên cạnh đó, tập trung phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng; phấn đấu năm 2025, tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP đạt khoảng 55% ”, ông Tâm nói.

Cùng với mục tiêu tăng trưởng cao, Chính phủ cũng yêu cầu giữ ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn; tức là tăng trưởng cao nhưng vẫn phải bảo đảm các yếu tố nền tảng.

Theo đó, chính sách tiền tệ sẽ được điều hành linh hoạt, chủ động, trong khi chính sách tài khóa (miễn, giảm thuế cho doanh nghiệp) vẫn duy trì tới giữa năm.

" Việc này sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển, sau đó quay lại đóng góp cho ngân sách, kích cầu tiêu dùng trong nước ", Thứ trưởng chốt lại.

8 Likes

TT Trump nhậm chức là một điều tốt đẹp cho thế giới! Nên các bạn bình tĩnh an nhiên, không phải Run sợ bất cứ điều nào hết nhé :christmas_tree:

Việt Nam là một nước an toàn bình an nhất thế giới đó các bạn :heart:

8 Likes