Kính chào Ban Quản Trị F247 cùng cộng đồng F247. Hoanghontim2011 Cô gái ngày xưa đó!

Tốc độ lạm phát CPI của Mỹ để kiểm tra xu hướng tăng giá của đồng đô la

Ngày 10 Tháng 8 21, 11:43 GMT

Mặc dù Fed đã tuyên bố rõ ràng rằng một sự thay đổi tiềm năng trong thắt chặt tiền tệ là có điều kiện nghiêm ngặt về việc liệu thị trường lao động Mỹ có đạt được tiến bộ đáng kể hay không, số liệu lạm phát CPI của Mỹ vẫn có thể đáng xem vào thứ Tư lúc 12:30 GMT. Các dự báo dành cho các số liệu của tháng 7 sẽ có sự chậm lại nhỏ, điều này có thể làm cho bất kỳ sự sai lệch nào có thể xảy ra. Một bất ngờ tăng giá có thể tạo thêm áp lực thắt chặt tiền tệ ngay sau tháng 9, cung cấp thêm nhiên liệu cho những con bò đô la và ngược lại.

Kỳ vọng lạm phát vẫn dưới 2,0%

Theo tỷ lệ hoán đổi lạm phát, kỳ vọng lạm phát đã giảm nhẹ so với mức đỉnh gần đây ở Mỹ, báo hiệu rằng các nhà đầu tư đã phần nào chấp nhận lời bào chữa của Fed về lạm phát nhất thời bất chấp sự gia tăng gần đây của các chỉ số giá.

Lạm phát tăng vọt không còn là nỗi lo đối với Fed

Biện pháp lạm phát yêu thích của Fed, chỉ số PCE cốt lõi, đã bắt đầu hoạt động kể từ tháng 4, đánh dấu mức cao sau mức cao trên 2,0%, là giới hạn trên của ngân hàng trung ương trước khi chuyển sang mục tiêu linh hoạt hơn. Lạm phát CPI cơ bản cũng diễn ra theo một mô hình tương tự, nhưng tốc độ tăng cao hơn, dẫn đến mức cao nhất trong 30 năm là 4,5% so với cùng kỳ năm ngoái vào tháng Sáu, trong khi CPI tiêu đề rộng hơn thậm chí còn cao hơn ở mức 5,4% so với năm ngoái. / y.

Trong những trường hợp khác, Fed sẽ ngay lập tức từ bỏ các chương trình kích thích cực kỳ dễ dàng của mình với phạm vi đẩy lạm phát trở lại mục tiêu 2,0%. Nhưng đây không phải là trường hợp nữa. Cách tiếp cận lạm phát mới của nó hiện đang cho phép giá tăng nhiệt trên 2,0% trong một thời gian cho đến khi chúng trung bình xung quanh ngưỡng này trong trung hạn trước khi bất kỳ động thái thắt chặt chính sách nào diễn ra. Trên hết, ngân hàng trung ương tin rằng vòng xoáy giá cả là một hiện tượng nhất thời được củng cố bởi cơn đại dịch, ngụ ý rằng một khi nền kinh tế trở lại cuộc sống bình thường và các hạn chế về nguồn cung biến mất, tăng trưởng giá sẽ giảm xuống dưới 2,0%.

Lý do trên là biện minh cho phản ứng im lặng của đồng đô la đối với các con số lạm phát trong vài tháng qua. Có lẽ, miễn là Fed không đổ mồ hôi và thị trường lao động vẫn là con voi trong phòng, các nhà đầu tư có thể ít nhạy cảm hơn với bất kỳ con số lạm phát nào. Tuy nhiên, nếu dữ liệu việc làm đạt mức mong muốn trong vài tháng tới và lạm phát vẫn bị mắc kẹt ở mức cao, buộc Fed phải đưa ra bất kỳ kế hoạch cắt giảm trái phiếu nào, thì đồng đô la có thể sẽ tăng thêm.

Một kịch bản thú vị khác sẽ là nếu lạm phát giảm đi khi các hiệu ứng cơ bản giảm dần, nhưng giá tiêu dùng vẫn ở mức cao, đè nặng lên nhu cầu đối với các sản phẩm và dịch vụ. Nhưng đây là một câu chuyện khác!

Lạm phát CPI giảm nhẹ trong tháng 7

Tuy nhiên, số liệu thống kê CPI trong tháng 7 dự kiến ​​sẽ tăng với tốc độ nhẹ nhàng hơn vào thứ Tư. Chỉ số tiêu đề CPI được dự báo sẽ giảm nhẹ xuống 5,3% so với mức 5,4% trước đó, trong khi biện pháp cốt lõi, không bao gồm các mặt hàng dễ biến động như thực phẩm và năng lượng, dự kiến ​​giảm từ 4,5% xuống 4,3% so với cùng kỳ. Sự thay đổi hàng tháng dự kiến ​​sẽ chậm lại với tốc độ nhanh hơn, giảm từ 0,9% xuống 0,5%.
Các dự báo trên cho thấy một đợt pullback tối thiểu, điều này vẫn có thể khiến các chỉ số giá tăng thoải mái trên 2,0%. Do đó, kết quả như vậy sẽ không ảnh hưởng nhiều đến đồng đô la. Có thể, một sự chậm lại rõ ràng hơn dự kiến ​​có thể bảo vệ lời giải thích nhất thời của Fed và chứng minh cho kỳ vọng lạm phát giảm, giảm nhu cầu về chính sách tiền tệ chặt chẽ hơn và do đó đưa đô la / yên trở lại vùng hỗ trợ 109,73 gần đó. Thấp hơn, cánh cửa sẽ mở ra cho mốc 109.00.

Ngoài ra, nếu các con số CPI chạy bất ngờ ngoài dự báo, kéo dài xu hướng tăng trên 2,0% trong tháng thứ năm liên tiếp, các lời kêu gọi thắt chặt tiền tệ có thể tăng lên trong ngân hàng trung ương, nhưng với giọng điệu bình tĩnh tổng thể của Fed, bất kỳ sự điều chỉnh tăng giá nào của đồng đô la / yên đều có thể bị hạn chế. Nếu cặp tiền này đóng cửa trên 110,40, chướng ngại vật tiếp theo có thể xuất hiện gần 110,95 và sau đó là khoảng 111,70.

Hãy nhớ lại rằng cuộc khảo sát PMI kinh doanh ISM vào tháng 7 đã báo cáo mức tăng giá đáng kể trong lĩnh vực dịch vụ, vốn là động lực tăng trưởng chính trong nền kinh tế Mỹ. Do đó, về mặt lý thuyết có khả năng xảy ra bất ngờ.

2 Likes

Giá dầu thô tăng trở lại khi các vụ việc ở Trung Quốc tăng

Ngày 10 Tháng 8 21, 07:27 GMT

Giá dầu thô đã tăng trở lại sau khi trải qua một trong những ngày tồi tệ nhất trong năm nay. Brent, điểm chuẩn toàn cầu, tăng từ $ 68,2 lên $ 69,2 trong khi West Texas Intermediate (WTI) tăng từ $ 65,2 lên $ 66,86. Các mức giá này về cơ bản thấp hơn đáng kể so với mức cao nhất trong năm nay do các nhà đầu tư vẫn lo ngại về nhu cầu khi biến thể Delta tiếp tục. Một mối lo chính là Trung Quốc, nơi số ca mắc bệnh đang tăng lên. Chính quyền Trung Quốc đã hủy bỏ tất cả các sự kiện và triển lãm quy mô lớn để hạn chế sự lây lan. Đồng thời, một số công ty chủ chốt như Amazon và Wells Fargo gần đây đã trì hoãn kế hoạch hoạt động trở lại của họ khi biến thể Delta lan rộng. Các cổ phiếu dầu mỏ như ExxonMobil, BP và Royal Dutch Shell giảm hơn 2% vào thứ Hai.

Chứng khoán Mỹ biến động trái chiều khi các nhà đầu tư theo dõi quá trình tố tụng mới nhất tại Thượng viện, nơi nhà dự kiến ​​thông qua gói cơ sở hạ tầng trị giá 1 nghìn tỷ USD. Dự luật này tìm cách giúp xây dựng lại cầu đường của đất nước và đầu tư vào năng lượng sạch. Tuy nhiên, tác động tổng thể của dự luật đối với nền kinh tế Mỹ sẽ không còn nữa vì nó sẽ được thực hiện trong khoảng thời gian 10 năm. Trong khi đó, làn sóng củng cố vẫn tiếp tục. Vào thứ Hai, Cargill và Continental Grains đã mua lại Sanderson Farms. Đồng thời, Canadian Pacific đưa ra lời đề nghị mua lại Kansas City Southern. Đề nghị mới trị giá khoảng 31 tỷ đô la. DraftKings cũng mua lại Golden Nugget Online trong một thương vụ trị giá 1,56 tỷ USD.

Lịch kinh tế sẽ tương đối bị tắt trong ngày hôm nay. Sự kiện quan trọng sẽ là dữ liệu tâm lý kinh tế Đức mới nhất sẽ được Viện ZEW công bố. Các nhà phân tích kỳ vọng rằng tâm lý đã giảm từ 63,3 trong tháng Bảy xuống 56,7 trong tháng Tám. Các điều kiện hiện tại dự kiến ​​sẽ tăng từ 21,9 trong tháng Bảy lên 30,0 vào tháng Tám. Tại Nam Phi, cơ quan thống kê sẽ công bố dữ liệu sản xuất chế tạo mới nhất trong khi Na Uy và Thụy Điển sẽ công bố số liệu lạm phát và sản xuất công nghiệp mới nhất.

XBRUSD

Giá dầu Brent hôm qua giảm xuống mức thấp 68,2 do lo ngại về đợt đại dịch mới nhất vẫn còn. Mức thấp nhất vào thứ Hai cao hơn một chút so với mức thấp nhất ngày 20 tháng 7 của cặp tỷ giá. Điều này có nghĩa là nó đã hình thành những gì trông giống như một mô hình hai đáy. Nó vẫn nằm dưới đường trung bình động 25 ngày và 50 ngày. Các chỉ báo dao động như Chỉ số Kênh Hàng hóa và MACD đã nghiêng cao hơn. Do đó, cặp tiền này có khả năng sẽ phục hồi khi các nhà đầu tư nhắm mục tiêu đến ngưỡng kháng cự quan trọng tiếp theo tại 70.00.

2 Likes

Sau Bkav, đến lượt một ứng dụng chat bị hacker rao bán cách chiếm đoạt tài khoản: Chỉ cần click vào link, tài khoản sẽ bị chiếm! Nạn nhân có thể là bất kỳ ai!

Thứ 3, 10/08/2021, 19:52

Hacker cũng cam kết sẽ cung cấp mẹo để khi gửi link thì 99% nạn nhân sẽ click mà không mảy may nghi ngờ.

Sau Bkav, đến lượt một ứng dụng chat bị hacker rao bán cách chiếm đoạt tài khoản: Chỉ cần click vào link, tài khoản sẽ bị chiếm! Nạn nhân có thể là bất kỳ ai!

Mới đây, trên diễn đàn R***forums - một diễn đàn trao đổi dữ liệu của hacker, một tài khoản mới lập tháng 8.2021 đăng bài chào bán lỗ hổng 0-day (Zero day) giúp “chiếm quyền kiểm soát bất kỳ tài khoản XXX Chat hay XXX Pay nào”.

Người này cho biết: “XXX là một sản phẩm của một công ty tư nhân ở Việt Nam. Tôi từng từng quan sát nhóm bảo mật của họ tại các sự kiện an ninh mạng toàn cầu, vì vậy tôi quyết định thử làm gì đó với XXX”.

Hacker cho biết người mua chỉ cần phải gửi một đường link tới nạn nhân thông qua ứng dụng chat, có thể dễ dàng đánh cắp tài khoản. Hacker cũng cam kết sẽ cung cấp mẹo để khi gửi link thì 99% nạn nhân sẽ click mà không mảy may nghi ngờ.

“Bạn chỉ gửi một đường link đến nạn nhân. Nạn nhân chỉ cần click vào link, tài khoản đó sẽ thuộc về bạn. Chỉ cần click, không cần làm gì khác”, hacker này khẳng định. “Lỗ hổng này không để lại bất kỳ dấu vết nào, không cảnh báo. Nạn nhân có thể là bất kỳ ai bạn muốn”.

Người mua cũng được hacker hứa hẹn cung cấp video bằng chứng quá trình khai thác lỗ hổng bảo mật nói trên thành công trước khi thanh toán. Phương thức thanh toán duy nhất được chấp nhận là tiền mã hóa - crypto.

Chủ đề của thành viên nói trên nhanh chóng thu hút nhiều người quan tâm chỉ sau 1 ngày xuất hiện. Trong số này, một thành viên diễn đàn từ năm 2019 cho rằng việc khai thác lỗ hổng này giống với lỗi từng được một hacker khác công khai trước đó.

Phản hồi lại yêu cầu công khai bằng chứng, hacker khẳng định chỉ bán cách khai thác lỗ hổng, không phải dữ liệu rò rỉ. Do đó, nếu đưa quá nhiều thông tin lên, phía ứng dụng có thể vá lỗi trước khi khách hàng của người này kịp đạt được mục đích. Lỗ hổng 0-day (Zero day) là những lỗi an ninh của phần mềm mà nhà phát triển chưa phát hiện hoặc bị khai thác khi chưa kịp có phương án khắc phục.

Hiện chủ đề rao bán vẫn tồn tại và được các thành viên của diễn đàn hacker quan tâm, phía đại diện của doanh nghiệp này hiện vẫn chưa đưa ra bất kỳ phản hồi nào về vấn đề này.

Vài ngày trước, một doanh nghiệp khác là Bkav cũng bị tin tặc rao bán mã nguồn phần mềm trên chính diễn đàn này.

Phản hồi vụ việc, thông qua diễn đàn an ninh mạng Việt Nam WhiteHat.vn. Bkav xác nhận đây là mã nguồn cũ của một số module thành phần của phần mềm Bkav.

Công ty cho hay các dữ liệu trên bị rò rỉ cách đây hơn một năm từ nhân viên cũ đã nghỉ việc và khẳng định, những module thành phần cũ không gây ảnh hưởng tới khách hàng.

Ngày nay tội phạm máy tính, hacker ngày càng “tinh ranh” và nguy hiểm hơn. Các chuyên gia cũng luôn nhắc nhở người dùng phải tự bảo vệ mình, hacker có thể sử dụng URL để thay đổi mật khẩu và đánh cắp dữ liệu của người dùng một cách nhanh chóng. Do đó, người dùng phải rất thận trọng trước khi click chuột vào bất cứ một đường link nào đó, kể cả khi được gửi từ tài khoản của người thân, bạn bè.

Theo Bạch Mão

2 Likes

Bạn @nganngan đọc PM nhé.

1 Likes
2 Likes

Chuyên gia Nhật Bản nói gì về làn sóng thâu tóm ồ ạt các doanh nghiệp Việt của người Nhật trong 1 thập kỷ qua? Xu hướng tiếp theo sẽ là gì?

Trong 10 năm qua, xu hướng mua bán và sáp nhập (M&A) giữa các nhà đầu tư Nhật Bản và doanh nghiệp Việt Nam ngày càng bùng nổ, với hàng tỷ USD vốn Nhật mua cổ phần doanh nghiệp Việt. Đến nay, nhiều ông lớn Nhật Bản đã sở hữu các thương hiệu Việt Nam hàng đầu, với các ngành nghề đa dạng, từ dược phẩm đến thời trang, hàng tiêu dùng, siêu thị…

Song, đại dịch Covid-19 xảy ra, biên giới đóng cửa đã làm chậm lại quá trình M&A này. Liệu sau khi dịch qua, thị trường này sẽ tiếp tục bùng nổ với nhu cầu bên bán và bên mua đều tăng? Trí thức trẻ đã có buổi trao đổi với ông Masataka Sam Yoshida - Tổng giám đốc RECOF, công ty tư vấn mua bán và sáp nhập cho các doanh nghiệp Nhật Bản, về vấn đề này.

Ông nhận xét ra sao về xu hướng các nhà đầu tư Nhật Bản tham gia hoạt động mua bán và sáp nhập (M&A) tại Việt Nam thời gian qua?

Trong bối cảnh diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid-19 tại Nhật Bản, hay kể cả làn sóng dịch mới tại Việt Nam gần đây, thì tôi đánh giá các nhà đầu tư Nhật Bản vẫn quan tâm đến Việt Nam.

Bằng chứng là nửa đầu năm 2021, có 13 giao dịch M&A được công bố, Việt Nam đã đứng thứ 4 trong nhóm các quốc gia trên thế giới có doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư, chỉ sau Mỹ, Singapore và Anh.

Trong những năm trước, Việt Nam đứng thứ 6, Đức và Trung Quốc dẫn trước. Tuy nhiên, với những đợt đóng cửa do đại dịch trong hơn một năm rưỡi vừa rồi, tôi cũng nhận thấy rằng nhiều nhà đầu tư Nhật Bản đang dần giảm kỳ vọng. Tôi hy vọng rằng Việt Nam sẽ kiểm soát được tình hình dịch bệnh trong thời gian tới.

Vì sao khi xét theo số lượng giao dịch, Việt Nam thuộc top 2 điểm đến M&A hàng đầu khu vực Đông Nam Á của các nhà đầu tư Nhật Bản; nhưng xét về giá trị, Việt Nam ít khi lọt vào top 3?

Thực tế thì Việt Nam chỉ đứng sau Singapore về số lượng giao dịch trong những năm gần đây. Xét tổng thể giá trị các giao dịch M&A, mặc dù Việt Nam được xếp ở vị trí thấp hơn so với các nước về giá trị thương vụ, nhưng điều quan trọng chính là vị trí của Việt Nam đã không ngừng tăng lên trong những năm vừa qua, và dẫn đầu nửa đầu năm 2021.

Một trong những thương vụ điển hình có thể kể đến như thương vụ 1,4 tỷ USD của SMBC (Nhật Bản) vào FE Credit.

Thực tế thì đây được coi là trường hợp ngoại lệ, nhưng nhìn chung, giá trị các doanh nghiệp Việt Nam đang ngày càng tăng nhờ đà tăng trưởng của nền kinh tế đất nước. Bởi vậy, các doanh nghiệp Nhật Bản mới có thể tự tin đầu tư những khoản lớn hơn trước đây rất nhiều.

Ông có thể điểm qua những giao dịch M&A lớn trong năm 2020 và đầu năm 2021?

Năm ngoái, đã có 23 giao dịch M&A giữa Việt Nam và Nhật Bản được công bố. Theo tôi nhớ, trong nửa đầu năm là 15 thương vụ, và cuối năm là 8. Trong vài năm qua, các thương vụ lớn nhất diễn ra đều thuộc lĩnh vực tài chính. Tôi có thể kể đến hai thương vụ điển hình. Một là thương vụ Bảo hiểm Nhân thọ Sumitomo đầu tư khoảng 173 triệu USD để tăng cổ phần vào Tập đoàn Bảo Việt, hai là khoản đầu tư của SMBC Consumer Finance vào FE Credit. Về lĩnh vực bất động sản, thực ra cũng có một vài thương vụ nhưng nhìn chung, hoạt động M&A trong ngành này thời gian qua đã kém sôi động hơn những năm trước.

Làn sóng dịch lần này đã ảnh hưởng ra sao đến các hoạt động M&A tại Việt Nam?

Tôi nghĩ tác động lớn nhất đến từ quy định về đóng cửa biên giới và các hạn chế đi lại. Điều này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động M&A xuyên biên giới, đặc biệt là các nhà đầu tư mới tại Việt Nam. Trong khi đó, các nhà đầu tư Nhật Bản đặc biệt chú ý đến việc gặp gỡ, chủ yếu là với chủ sở hữu và đội ngũ quản lý, cũng như xem xét nhà máy, văn phòng, cửa hàng… trước khi đưa ra quyết định đầu tư. Những yếu tố này còn quan trọng hơn nữa đối với các nhà đầu tư chưa bao giờ đến Việt Nam.

Theo tôi thấy thì trong năm 2020 và 2021, hầu hết các giao dịch đều đến từ các tập đoàn lớn của Nhật Bản có cơ sở tại Việt Nam, chẳng hạn như các công ty thương mại và tổ chức tài chính lớn, hoặc đến từ doanh nghiệp Nhật Bản có kinh nghiệm mua lại công ty Việt Nam trong quá khứ.

Ngoài ra, dịch bệnh còn khiến quá trình đàm phán kéo dài hơn bình thường. Có những thương vụ tôi nghĩ rằng đến hiện tại không đi vào đâu chỉ vì các bên chưa có cơ hội gặp trực tiếp.

Mặt khác thì ngay trong đại dịch, phương thức đàm phán các giao dịch M&A cũng đã thay đổi rất nhiều. Các doanh nghiệp cũng tận dụng việc họp trực tuyến và công nghệ số. Tôi nghĩ là sau khi dịch qua đi, sẽ có một làn sóng “ồ ạt và bùng nổ” của các nhà đầu tư Nhật Bản, những người đang phải chờ “ngoài cửa” trong thời gian vừa rồi.

Điều này cũng có nghĩa rằng Việt Nam cần được định vị tốt hơn trong việc thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, bởi sự cạnh tranh sẽ ngày càng mạnh mẽ.

Trong 6 tháng đầu năm nay, hoạt động M&A tại các khu công nghiệp và doanh nghiệp logistics tăng mạnh. Điều gì đã thúc đẩy làn sóng này?

Đầu tiên, không thể phủ định rằng thị trường logistics và bất động sản công nghiệp ở Việt Nam đang ngày càng có tiềm năng, và sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong tương lai. Căng thẳng thương mại Mỹ - Trung leo thang cũng đã thúc đẩy xu hướng này, khi mà hàng loạt doanh nghiệp rời khỏi Trung Quốc và sang khu vực Đông Nam Á.

Đặc biệt hơn nữa, trong khu vực, Việt Nam đã nổi lên so với nhiều nền kinh tế khác, không chỉ bởi vị trí địa lý, mà còn về các chỉ số kinh tế vĩ mô chính như: tăng trưởng kinh tế cao liên tục, chi phí lao động cạnh tranh, ưu đãi thuế thuận lợi, môi trường chính trị ổn định và khu vực thương mại điện tử đang bùng nổ…

Ngoài ra, việc Việt Nam tham gia một số hiệp định thương mại tự do, và hàng loạt doanh nghiệp khổng lồ trong nhiều lĩnh vực chọn Việt Nam là những dấu hiệu cho thấy sự hấp dẫn của quốc gia về đầu tư và mở rộng kinh doanh. Từ đó, nhu cầu về các khu công nghiệp, cũng như hoạt động logistics tại đây lại càng lớn hơn nữa.

Ngay cả khi Chính phủ Nhật Bản triển khai chương trình Hỗ trợ đa dạng hóa chuỗi cung ứng ở nước ngoài trong giai đoạn dịch vừa rồi, nhằm khuyến khích các nhà sản xuất Nhật Bản chuyển cơ sở sản xuất ở nước ngoài tới Đông Nam Á hoặc trở về Nhật Bản, thì một nửa trong số danh sách các doanh nghiệp đang hoạt động ở Việt Nam.

Với tiềm năng như tôi đã đề cập, các nhà đầu tư sẽ không ngần ngại tham gia vào thị trường bất động sản công nghiệp và logistics của Việt Nam, ngay cả trong thời kỳ đại dịch đi nữa. Chúng ta cũng đã thấy nhiều nhà đầu tư lớn trong nước, cũng như các nhà phát triển logistics nổi tiếng trên thế giới đã xuất hiện tại Việt Nam.

Vậy cách thức tiếp cận của họ là gì? Thực tế, M&A từ lâu đã là một chiến dịch kinh doanh phổ biến đối với doanh nghiệp muốn mở rộng sang các thị trường mới. Và khi đến Việt Nam, thì xu hướng này thậm chí còn phổ biến hơn.

Lý do đơn giản là các đối tác nước ngoài của doanh nghiệp thường có nguồn lực về vốn, công nghệ và nhiều yếu tố khác… để đáp ứng nhu cầu trong kho bãi và logistics. Có thể thấy, các bên có thể tận dụng để khai thác hết tiềm năng của mình.

Ngoài ra còn các lĩnh vực nào theo ông đã tăng mạnh hoạt động M&A thời gian vừa qua? Vì sao lại có sự thay đổi này?

Năm 2020 và nửa đầu năm 2021 chắc chắn là giai đoạn vô cùng khó khăn với làn sóng mới của dịch bệnh Covid-19. Các giao dịch đã sụt giảm ở mức nghiêm trọng, chủ yếu do môi trường kinh doanh vẫn còn nhiều bất định, kèm theo hạn chế đi lại.

Tuy nhiên, có một điểm sáng đáng khích lệ đó là Việt Nam vẫn tiếp tục được kỳ vọng là một trong những nền kinh tế có tốc độ phát triển nhanh nhất châu Á. Các thương vụ M&A cũng đã thể hiện niềm tin của nhà đầu tư vào tiềm năng lâu dài của Việt Nam hậu đại dịch.

Tôi thấy rằng các lĩnh vực công nghệ, chăm sóc sức khỏe và dịch vụ tài chính tương đối sôi động đối với các nhà hoạch định thương vụ. Covid-19 phần nào đã thúc đẩy nhu cầu của các dịch vụ số và công nghệ cơ bản.

Do đó, M&A, hay chúng tôi thường gọi là mua thay vì xây dựng (buy over build) đang là cách tiếp cận phổ biến của doanh nghiệp, nhằm nhanh chóng điều chỉnh theo “quy luật bình thường mới”.

Xu hướng này xảy ra không chỉ ở những “gã khổng lồ” công nghệ, mà còn cả những công ty phi công nghệ, hay những doanh nghiệp vừa và nhỏ, muốn mở rộng phạm vi hoạt động.

Một xu hướng mạnh mẽ nhất mà ai cũng chứng kiến thời gian qua chính là lĩnh vực fintech và thương mại điện tử. Khi hành vi của người tiêu dùng thay đổi, loạt startup trong lĩnh vực thanh toán số và thương mại điện tử đã huy động được hàng triệu USD từ các nhà đầu tư trên khắp thế giới.

Lĩnh vực chăm sóc sức khỏe cũng không kém hấp dẫn trong mắt các nhà đầu tư, đặc biệt là ở các phân ngành như thiết bị bảo vệ cá nhân, dược phẩm… Phân khúc sản xuất cũng đang phát triển và sôi động nhờ nhiều công ty đa quốc gia chuyển cơ sở sản xuất từ Trung Quốc. Song nhóm doanh nghiệp này hiện đang ưu tiên đầu tư vào lĩnh vực xanh, hơn là M&A.

Đâu là trở ngại lớn nhất ông thấy các doanh nghiệp Nhật Bản đang gặp phải trong hoạt động M&A tại Việt Nam?

Ngoài thách thức về cạnh tranh gia tăng giữa những nhà đầu tư từ các nước khác nhau, thì quy định và các nguyên tắc vẫn là trở ngại lớn đối với doanh nghiệp Nhật Bản. Áp lực về các tiêu chuẩn đối với doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán, ngày càng tăng chứ không hề giảm.

Thực chất thì về vấn đề này, tôi cho rằng các nhà đầu tư Nhật Bản nên học cách điều chỉnh khác biệt đối với thực tiễn địa phương ở Việt Nam. Nhất là khi các hoạt động kinh tế phục hồi sau đại dịch, sự cạnh tranh giữa các nhà đầu tư nước ngoài sẽ ngày càng gay gắt, trở ngại này sẽ càng lớn hơn.

Trước tình hình diễn biến phức tạp của đại dịch hiện nay, ông đánh giá ra sao về triển vọng hoạt động M&A thời gian tới. Vì sao lại như vậy?

Về dài hạn thì tôi vẫn tin vào triển vọng của thị trường M&A Việt Nam. Các yếu tố cơ bản của nền kinh tế không thay đổi, cộng với sự gia tăng đầu tư vào cơ sở hạ tầng, bao gồm các lĩnh vực như logistics, đã phản ánh sức mạnh tâm lý của các nhà đầu tư.

Mặc dù Việt Nam bị ảnh hưởng bởi Covid-19 muộn hơn so với các nước khác, nhưng nhìn chung các nhà đầu tư vẫn tin rằng Việt Nam sẽ sớm phục hồi sau đại dịch, và các khoản đầu tư vào thị trường đang phát triển này sẽ không trì hoãn, hay giảm tốc độ.

Bài:

Quỳnh Lê

2 Likes

‘Cải cách thể chế là gói hỗ trợ có dư địa lớn nhất với kỳ vọng của doanh nghiệp’

Ngoài các chính sách hỗ trợ của Chính phủ đã và đang thực hiện, Chủ tịch VCCI Vũ Tiến Lộc cho rằng cải cách thể chế là gói hỗ trợ còn dư địa lớn nhất với nhiều kỳ vọng từ các doanh nghiệp.

Các chính sách hỗ trợ về tài khoá và tiền tệ của Chính phủ đã và đang phát huy hiệu quả, là “liều thuốc trợ lực” kịp thời giúp cộng đồng doanh nghiệp (DN) và người dân bước đầu trụ vững trước những khó khăn do đại dịch COVID-19.

Tuy nhiên, trao đổi với Nhadautu.vn , TS. Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) nhận định các DN vẫn cần thêm nhiều sự hỗ trợ khác về tháo gỡ thể chế, đơn giản thủ tục, đặc biệt là các chính sách bảo đảm không để đứt gãy chuỗi sản xuất, cung ứng.

Bộ Tài chính đã hoàn thiện dự thảo Nghị quyết hỗ trợ về chính sách thuế cho nhiều đối tượng trong đó có doanh nghiệp, hộ kinh doanh gặp khó khăn do COVID-19. Ông đánh giá gì về nỗ lực của Chính phủ trong thời gian qua?

TS. Vũ Tiến Lộc: Cộng đồng DN có nhiều ý kiến phản hồi khác nhau về các chương trình hỗ trợ của Chính phủ.

Nhìn chung, các DN ghi nhận sự cố gắng của Chính phủ trong việc đồng hành cùng DN vượt khó. Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, tôi được biết Bộ Tài chính đã trình dự thảo Nghị quyết hỗ trợ về chính sách thuế nhằm thực hiện 4 giải pháp hỗ trợ DN.

Đó là, giảm 30% số thuế thu nhập DN phải nộp của năm 2021 đối với DN, tổ chức như đã áp dụng cho năm 2020; giảm 50% số thuế phải nộp phát sinh từ hoạt động sản xuất kinh doanh của các tháng trong quý III và quý IV của năm 2021 đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh trong mọi lĩnh vực, ngành, nghề, địa bàn, hình thức khai thuế, nộp thuế; giảm 30% mức thuế giá trị gia tăng đối với DN, tổ chức hoạt động trong một số nhóm lĩnh vực dịch vụ; miễn tiền chậm nộp phát sinh trong năm 2020 và năm 2021 (2 năm chịu ảnh hưởng bởi dịch COVID-19) đối với DN, tổ chức phát sinh lỗ liên tục trong các năm 2018, năm 2019, năm 2020.

TS. Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Ảnh: Quang Vinh.

Việc Chính phủ liên tục giao các bộ, ngành thiết kế các chính sách hỗ trợ. Đặc biệt, khi thiết kế chính sách, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã yêu cầu lấy ý kiến góp ý từ cả cộng đồng DN, bảo đảm thực thi với thủ tục đơn giản, hiệu quả nhất.

Với giải pháp thứ nhất, trong dự thảo mà Bộ Tài chính xây dựng là giảm 30% thuế thu nhập DN năm 2021 nhưng chỉ với quy mô 200 tỷ trở xuống (như năm 2020), số DN thụ hưởng không quá nhiều. Vì trong bối cảnh dịch bệnh khó khăn, nhiều DN giảm mạnh lợi nhuận, thậm chí có DN nhỏ thu không đủ bù đắp chi.

Về giải pháp giảm 50% cho hộ kinh doanh là rất hữu ích, như “mũi tên trúng hai đích”, vừa giúp cho các hộ kinh doanh, vừa hỗ trợ lực lượng lao động bởi khu vực hộ kinh doanh có đóng góp tới 30% GDP nên có ảnh hưởng lớn tới xã hội. Việc giảm thuế cho khu vực này là một sự đột phá về mặt chính sách, thể hiện Chính phủ không chỉ quan tâm các DN lớn mà còn cả hộ cá nhân kinh doanh - đối tượng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất bởi dịch bệnh.

Giải pháp giảm thuế giá trị gia tăng với các DN kinh doanh dịch vụ như vận tải, du lịch, nhà hàng, khách sạn chịu ảnh hưởng lớn bởi đại dịch là rất hợp tình, hợp lý.

Cuối cùng, giải pháp miễn tiền chậm nộp phát sinh trong các năm 2020, 2021 và không phạt phần nộp chậm có tác động lớn đến cộng đồng DN, khiến đông đảo DN yên tâm, đồng hành cùng Chính phủ.

Các ngân hàng cũng đang giảm lãi suất cho vay nhưng nhiều DN vẫn phản ánh khó tiếp cận?

TS. Vũ Tiến Lộc: Để hỗ trợ DN gặp khó khăn do đại dịch, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành Thông tư 03/2021/TT-NHNN ngày 2/4/2021 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 01/2020/TT-NHNN ngày 13/3/2020 của Thống đốc NHNN Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ.

Các ngân hàng thương mại cố gắng giảm lãi suất là sự chia sẻ đáng ghi nhận, đặc biệt nguồn hỗ trợ này là từ nguồn lực của chính các ngân hàng với ước tính mỗi ngân hàng tham gia lên tới hàng nghìn tỷ đồng.

Dù vậy, số DN thật sự tiếp cận được lãi suất giảm còn ít so với kỳ vọng, DN vẫn còn “kêu nhiều”, đặc biệt là các DN nhỏ vì khó tiếp cận vốn vay ưu đãi. Cộng đồng DN mong muốn các ngân hàng cần nỗ lực hơn nữa trong việc đồng hành, chia sẻ khó khăn.

Bản thân các ngân hàng cũng phải hoạt động kinh doanh như một DN (kinh doanh tiền tệ). Do đó, việc mở rộng tín dụng, nới “room” cho vay trong bối cảnh hiện nay cũng đòi hỏi phải đi đôi với chất lượng tín dụng, nên dư địa về chính sách tiền tệ, hạ lãi suất điều hành, tạo điều kiện để hạ tiếp lãi vay cũng không còn nhiều.

Có nhiều khoản nợ cần được cơ cấu lại nhưng lại không đáp ứng được điều kiện quy định tại Thông tư 03 về thời gian phát sinh nợ là trước ngày 10/6/2020. Trong bối cảnh khó khăn, DN sẽ cần nhiều thời gian để khôi phục, ổn định nên nợ phát sinh nghĩa vụ phải trả sau tháng 12/2021 vẫn cần phải cơ cấu lại. Trong bối cảnh dịch bệnh, đối với việc cơ cấu thời gian trả nợ thêm 12 tháng như tại Thông tư 03 thì doanh nghiệp vẫn khó có thể trả nợ.

Vậy theo ông, ngoài những gói hỗ trợ trên, DN cần giải pháp gì thêm ở Chính phủ?

TS. Vũ Tiến Lộc: Thời gian qua, với tinh thần đồng hành cùng DN, không chỉ có các gói hỗ trợ về chính sách tài khoá, tiền tệ, Chính phủ còn nhiều chính sách khác hỗ trợ người dân và DN. Chính phủ yêu cầu giảm tiền điện, nước sạch và cước viễn thông cho người dân và DN là rất đáng hoan nghênh.

Nhưng các DN hiểu rằng, với ngân sách hạn hẹp hiện nay, dư địa chính sách tài khoá, tiền tệ không còn nhiều để bảo đảm giữ các cân đối lớn của nền kinh tế. Không thể kỳ vọng Việt Nam có thể so sánh với các nước giàu với ngân sách dồi dào, sẵn sàng bơm hàng nghìn tỷ USD khôi phục kinh tế.

Như vậy, giải pháp tháo gỡ hiện nay là cải cách thể chế, đây chính là “gói hỗ trợ” còn dư địa lớn nhất với nhiều kỳ vọng từ các DN.

Cộng đồng DN thấy rõ quyết tâm của Chính phủ là phòng, chống dịch hiệu quả đi đôi với nỗ lực duy trì tăng trưởng, phấn đấu thực hiện “mục tiêu kép”. Tuy nhiên, để thực hiện “mục tiêu kép” thì cần “thước đo kép”, mà đáng tiếc, điều này chưa được các địa phương quan tâm thực hiện đúng mức.

Trong thời gian dịch bùng phát vừa qua, cộng đồng DN chứng kiến không ít địa phương áp dụng các chỉ thị chống dịch khá máy móc, không thống nhất, dẫn đến việc các DN gặp không ít phiền toái, tăng gánh nặng chi phí và đứng trước nguy cơ đứt gãy chuỗi cung ứng.

Theo Anh Anh

2 Likes

Ngân sách Nhà nước thặng dư hơn 101.000 tỷ đồng

7 tháng đầu năm, thu ngân sách Nhà nước (NSNN) bằng 67,9% dự toán, tương đương mức tăng 15,6% so với cùng kỳ năm ngoái.

Ngân sách Nhà nước thặng dư hơn 101.000 tỷ đồng

Báo cáo từ Bộ Tài chính cho biết, tổng thu NSNN thực hiện tháng 7 ước đạt 126.700 tỷ đồng. Luỹ kế thu 7 tháng đạt 912.100 tỷ đồng, bằng 67,9% dự toán, tăng 15,6% so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó thu nội địa vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất với 744.000 tỷ đổng sau 7 tháng đầu năm.

Tại chiều ngược lại, tổng chi cân đối NSNN tháng 7 ước đạt 111.900 tỷ đồng. Lũy kế chi 7 tháng ước đạt 810.600 tỷ đồng, bằng 48% dự toán. Trong đó riêng chi thường xuyên đạt 572.200 tỷ đồng.

Như vậy sau 7 tháng đầu năm, NSNN thặng dự hơn 101.000 tỷ đồng.

Ngoài ra theo Bộ Tài chính, trong 7 tháng đầu năm, Trung ương đã chi 4.200 tỷ đồng từ dự phòng năm 2021 để bổ sung kinh phí cho Bộ Y tế mua vaccine, các vật tư, hóa chất, sinh phẩm và trang thiết bị y tế cần thiết phục vụ công tác phòng, chống dịch COVID-19 (1.799 tỷ đồng); kinh phí phòng chống dịch cho Bộ công an (389 tỷ đồng); Bộ Quốc phòng (1.553 tỷ đồng) và hỗ trợ kinh phí phòng, chống dịch COVID-19 cho các địa phương (471 tỷ đồng); Các địa phương đã chi gần 2.400 tỷ đồng cho công tác phòng chống dịch.

Về công tác quản lý nợ và tài chính đối ngoại, theo Bộ Tài chính, trả nợ của Chính phủ trong tháng 7 khoảng 23.905 tỷ đồng, trong đó trả nợ trong nước khoảng 19.843 tỷ đồng, trả nợ nước ngoài khoảng 4.062 tỷ đồng. Lũy kế 7 tháng đầu năm, tổng trả nợ của Chính phủ khoảng 233.674 tỷ đồng. Trong đó trả nợ trong nước khoảng 198.901 tỷ đồng, trả nợ nước ngoài khoảng 34.773 tỷ đồng.

Vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt gần 6,5 triệu tỷ đồng

Về thị trường chứng khoán, Bộ Tài chính cho biết tính đến hết tháng 7, chỉ số VN-Index đạt 1.310,05 điểm, giảm 7% so với cuối tháng trước và tăng 17,8% so với cuối năm 2020. Mức vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt 6.470.000 tỷ đồng, tăng 22,2% so với cuối năm 2020, tương đương 102,8% GDP.

Ngân sách Nhà nước thặng dư hơn 101.000 tỷ đồng - Ảnh 1.

Tính đến hết tháng 7, vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt gần 6,5 triệu tỷ đồng

Trong bối cảnh tình hình dịch bệnh tại TP Hồ Chí Minh phức tạp, qua sàng lọc COVID-19 đối với nhân viên “3 tại chỗ” của Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) đã phát hiện một số ca dương tính.

Nhằm đảm bảo an toàn và hoạt động liên tục của thị trường chứng khoán tại HOSE, Bộ Tài chính, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước yêu cầu HOSE đảm bảo mọi hoạt động giao dịch được duy trì bình thường theo các kịch bản phòng chống dịch.

Theo Thùy An

[Theo VTV.VN ] copy link.

2 Likes

TA ĐÂU CÓ SAY!

1 Likes

Gói hỗ trợ 900 tỷ đồng sẽ đến với người dân trước 15/8

Thứ 4, 11/08/2021, 09:58

Ước tính có tổng cộng gần 630.000 người lao động và hộ gia đình sẽ được hỗ trợ đợt này.

TP Hồ Chí Minh: Gói hỗ trợ 900 tỷ đồng sẽ đến với người dân trước 15/8

Theo thông tin này vừa được Sở Lao Động Thương Binh và Xã hội TP Hồ Chí Minh, ngay khi hoàn thành chi gói hỗ trợ lần 1 cho các lao động bị ảnh hưởng, Thành phố sẽ tiếp tục triển khai gói hỗ trợ thứ 2 cho đối tượng lao động thất nghiệp, lao động tự do, hộ nghèo - hộ cận nghèo, đảm bảo “không bỏ sót, không trùng lặp”, phấn đấu trước 15/8 sẽ chi trả xong.

Cụ thể, gói hỗ trợ đợt 2, với quy mô 900 tỷ đồng cho 3 nhóm đối tượng gồm: lao động tự do không ký kết hợp đồng lao động; Hộ nghèo, cận nghèo trên địa bàn Thành phố và lao động ở trong các nhà trọ, khu lưu trú, xóm nghèo trong khu vực bị phong tỏa gặp khó khăn. Ước tính có tổng cộng gần 630 nghìn người lao động và hộ gia đình sẽ được hỗ trợ đợt này.

Với nhóm lao động tự do không ký kết hợp đồng lao động sẽ thực hiện tương tự đợt hỗ trợ lần 1, phải có đăng ký tạm trú và do hội đồng xã, phường họp xét.

Sở Lao Động Thương Binh và Xã hội TP Hồ Chí Minh cho biết thêm, với nhóm đối tượng mở rộng, chỉ những người lao động ở các nhà trọ, xóm nghèo, khu vực phong tỏa đang gặp khó khăn thì mới hỗ trợ chứ không phải tất cả người ở trọ đều được hỗ trợ. Phần hỗ trợ này không phân biệt hộ khẩu thường trú hay tạm trú.

“Trong đó ưu tiên cho những hộ nghèo, hộ cần nghèo có từ 3 nhân khẩu trở lên, hộ lao động có từ 3 người trở lên, ai khó khăn trước giải quyết trước, ai khó khăn sau giải quyết sau, chia sẻ với nhau. Còn nguồn kinh phi một là từ ngoài ngân sách thành phố, một phần từ xã hội hoá”, ông Lê Minh Tấn - Giám đốc Sở Lao Động Thương Binh và Xã hội TP Hồ Chí Minh cho biết.

Theo PV

2 Likes

Chống dịch không có nghĩa là bỏ qua Hiệp định EVFTA

THỨ 4, 11/08/2021, 07:51

Hiệp định EVFTA đang trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, nhất là khi chiến dịch tiêm chủng được triển khai và đại dịch được kiểm soát, các nền kinh tế mở cửa trở lại và phục hồi.

Chống dịch không có nghĩa là bỏ qua Hiệp định EVFTA

Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA) sau 1 năm thực thi đã mang lại những tác động tích cực cho hoạt động xuất khẩu, nhất là khi nền kinh tế đang gặp nhiều khó khăn do dịch Covid-19. Số liệu thừ Bộ Công Thương cho thấy, chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 2021, kim ngạch thương mại 2 chiều Việt Nam- EU đạt 27,67 tỷ USD, tăng 18,4% so cùng kỳ năm 2020. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu hàng Việt vào EU đạt 19,4 tỷ USD, tăng 18,3%.

Cơ hội tiếp cận nhiều lĩnh vực tiềm năng

Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương) - ông Lương Hoàng Thái cho rằng, EVFTA đã mang lại nhiều cơ hội để Việt Nam mở rộng xuất khẩu, thu hút đầu tư và tham gia sâu rộng hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Các sản phẩm thế mạnh của Việt Nam như giày dép, dệt may, các sản phẩm nông, lâm nghiệp như gạo, sản phẩm từ cao su hiện vẫn giữ được phong độ và tận dụng tốt Hiệp định này.

“Việc Việt Nam tham gia vào một trong những hiệp định thương mại thế hệ mới như EVFTA với một đối tác lớn như EU đã tạo ra cho Việt Nam nhiều cơ hội tiếp cận với nhiều lĩnh vực tiềm năng, đi kèm với mức độ áp dụng công nghệ cao. Việc hợp tác với EU trong lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao là lĩnh vực tiềm năng mà Việt Nam có thể nhận được sự chuyển giao giải pháp công nghệ, sản xuất chế biên nông sản, thực phẩm. EVFTA và EVIPA là cơ hội để Việt Nam còn có thể tiếp cận được tiềm năng về vốn, công nghệ của EU”, ông Lương Hoàng Thái khẳng định.

Chống dịch không có nghĩa là bỏ qua Hiệp định EVFTA - Ảnh 1.

Các sản phẩm thế mạnh của Việt Nam phát huy khả năng chinh phục thị trường EU.

Bên cạnh những kết quả tích vực về thương mại, đầu tư song phương, việc thực thi EVFTA sau 1 năm thực thi vẫn còn tồn tại một số khó khăn và thách thức. Kết quả Chỉ số môi trường kinh doanh EuroCham (Business Climate Index - BCI) mới nhất cho thấy, gần 2/3 số công ty cho biết đã được hưởng lợi từ EVFTA. Tuy nhiên, họ cũng chỉ ra khó khăn trong các vấn đề liên quan tới thủ tục hành chính và hàng rào kỹ thuật thương mại.

Cùng với đó, việc tận dụng các cam kết ưu đãi chưa thực sự tương xứng với tiềm năng; DN chưa thực sự quan tâm tới việc tìm hiểu và tận dụng cơ hội từ Hiệp định này, hay hoạt động phổ biến tuyên truyền về Hiệp định chưa đạt được hiệu quả như mong đợi…

Ông Nguyễn Anh Dương - Trưởng Ban nghiên cứu tổng hợp, Viện Nghiên cứu quản ký kinh tế Trung ương (CIEM) cho rằng, tiêu chuẩn cao trong EVFTA nói riêng và ở thị trường EU nói chung buộc doanh nghiệp Việt Nam phải chủ động tìm hiểu, tuân thủ một cách bài bản, thay vì chỉ tính toán lợi thế cạnh tranh về giá khi EU cắt giảm thuế nhập khẩu.

“Nhiều DN đã quan tâm hơn đến những tiêu chuẩn về chất lượng hàng hóa với mong muốn khai thác thị trường EU nhanh và bền vững hơn. Tuy nhiên, DN cần luôn tìm hiểu, cập nhật và đáp ứng các thay đổi trong chính sách thương mại của EU. Theo dõi xu hướng về các biện pháp phi thuế quan, đồng thời lưu ý các tiêu chuẩn riêng của nhà nhập khẩu. Cùng đó, chủ động xây dựng kế hoạch nâng cao năng lực xuất khẩu, đặc biệt là khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật, biện pháp vệ sinh dịch tễ vào thị trường EU”, ông Dương chỉ rõ.

Chống dịch song hành với tận dụng lợi thế

Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến việc tận dụng Hiệp định EVFTA còn chưa được như kỳ vọng, là do bối cảnh dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp trên phạm vi toàn cầu đã ảnh hưởng không nhỏ đến kinh tế thế giới và Việt Nam. Các chuỗi cung ứng bị đứt gãy, chuỗi phân phối bị gián đoạn, nền kinh tế toàn cầu phải chống chọi với những đợt sóng suy giảm nặng nề.

Ngoài ra, công tác dự báo, sự quan tâm và đánh giá đúng mức phạm vi tác động của hội nhập và thực thi FTA của một số cơ quan, địa phương còn một số hạn chế và chưa có tính hệ thống và kịp thời. Nhiều địa phương chưa thực sự chủ động vào cuộc trong việc xây dựng định hướng, chiến lược tận dụng FTA cho các DN.

Chủ tịch Phòng Thương mại châu Âu tại Việt Nam (EuroCham) - Alain Cany cho rằng, hiện tại các nước trên thế giới đều đang tập trung mọi nguồn lực để chống lại đại dịch Covid-19. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là chúng ta bỏ qua EVFTA, bởi trên thực tế, Hiệp định đang trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, nhất là khi chiến dịch tiêm chủng được triển khai và đại dịch được kiểm soát, các nền kinh tế mở cửa trở lại và phục hồi.

“Để có thể phát triển dựa trên nền tảng EVFTA đầy hứa hẹn này, hai bên cần phải cùng nhau hợp tác. EVFTA sẽ không thành công nếu không có nỗ lực phối hợp giữa Chính phủ và cộng đồng DN tư nhân. Việc Hiệp đinh thực thi chưa phải là kết quả cuối cùng, hai bên cần duy trì nỗ lực trong Thập kỷ tiếp theo, tương tự như những gì chúng ta đã làm suốt 10 năm qua”, ông Alain Cany nhấn mạnh.

Chống dịch không có nghĩa là bỏ qua Hiệp định EVFTA - Ảnh 2.

Để thực thi hiệu quả hiệu quả hơn nữa Hiệp định EVFTA, rất cần sự chung tay của các Bộ, ngành, địa phương cũng như DN.

Thời gian tới, tình hình dịch bệnh có khả năng diễn biến phức tạp, kéo dài, các biện pháp phong tỏa còn hiện diện từ đó làm suy giảm nghiêm trọng nguồn lực của DN, ảnh hưởng đến việc đối mới công nghệ, cải thiện chất lượng sản phẩm, năng suất lao động… khiến việc tận dụng hiệu quả các cam kết của EVFTA trở nên khó khăn hơn.

Trong bối cảnh đó, nhiều chuyên gia cho rằng, để thực thi hiệu quả hiệu quả hơn nữa Hiệp định EVFTA, rất cần sự chung tay của các Bộ, ngành, địa phương cũng như DN. Các Bộ, ngành cần phối hợp thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ được giao theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, có việc bố trí đủ và linh hoạt kinh phí cho các cơ quan thực hiện các nhiệm vụ được giao trong Kế hoạch thực hiện Hiệp định EVFTA. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu để có cơ chế thuận lợi hơn cho DN trong việc tiếp cận các khoản tín dụng để nâng cao khả năng tận dụng cơ hội từ các FTA./.

2 Likes

Thêm hai quốc gia Đông Nam Á sau Singapore công bố kết quả tăng trưởng quý 2: Cao hay thấp so với Việt Nam, lý do phía sau là gì?

Thứ 4, 11/08/2021, 13:32

Mới đây, đã có thêm 2 quốc gia trong khối ASEAN-6 công bố kết quả tăng trưởng quý 2. Tốc độ tăng trưởng quý 2 đạt 11,8% ở Philippines, và 7,1% ở Indonesia.

Thêm hai quốc gia Đông Nam Á sau Singapore công bố kết quả tăng trưởng quý 2: Cao hay thấp so với Việt Nam, lý do phía sau là gì?

Ảnh: Jakarta, Indonesia/REUTERS/ Ajeng Dinar Ulfiana

Theo dữ liệu được cơ quan thống kê Singapore (Department of Statistics Singapore), GDP Singapore đã tăng trưởng 14,3% so với cùng kỳ trong quý 2/2021. Đây là mức tăng cao nhất kể từ quý 2/2010. Khi được công bố, con số này không gây quá nhiều bất ngờ, do quý 2/2020, GDP Singapore tăng trưởng âm 13,3% so với cùng kỳ 2019 vì đóng cửa nền kinh tế hàng tháng, hầu hết các cơ sở làm việc đều đóng cửa.

“Hoạt động của nền kinh tế Singapore trong nửa đầu năm 2021 mạnh hơn dự kiến”, Bộ Thương mại và Công nghiệp Singapore cho biết. “Tình hình Covid-19 cũng đã ổn định, trong bối cảnh chương trình tiêm chủng của chúng tôi tiếp tục có tiến triển tốt. Nếu kinh tế toàn cầu không có biến động quá lớn, kinh tế Singapore dự kiến ​​sẽ tiếp tục phục hồi dần dần trong nửa cuối năm, phần lớn được hỗ trợ bởi các lĩnh vực hướng ngoại”.

Mới đây, đã có thêm 2 quốc gia trong khối ASEAN-6 công bố kết quả tăng trưởng quý 2. Tốc độ tăng trưởng quý 2 đạt 11,8% ở Philippines, và 7,1% ở Indonesia.

Kết quả tăng trưởng quý 2 của Philippines cơ quan thống kê của nước này công bố hôm 10/8, đánh dấu sự kết thúc của cuộc suy thoái kéo dài 15 tháng do đại dịch gây ra. Song, các nhà phân tích cho biết, các biện pháp lockdown đang được áp dụng tại thủ đô nước này, nhằm chống lại sự lây lan của biến thể Delta, có thể gây ra tác động tiêu cực lên triển vọng trong nửa cuối năm nay.

Cũng như Singapore, Philippines phục hồi từ mức giảm 17% trong quý 2 năm trước. Đây cũng là mức tăng trưởng cao nhất kể từ quý 4/1988. Kinh tế Philippines được củng cố bởi sự phục hồi trong chi tiêu hộ gia đình, một động lực kinh tế quan trọng ở quốc gia 109 triệu dân.

Bà Sian Fenner, Chuyên gia kinh tế trưởng tại Oxford Economics cho biết: “Mặc dù tác động kinh tế của các biện pháp hạn chế và đóng cửa gần đây sẽ không lớn như năm ngoái, nhưng chúng tôi dự báo những hạn chế mới nhất và sự gia tăng số ca dương tính sẽ ảnh hưởng đến tâm lý và làm giảm sự phục hồi trong chi tiêu hộ gia đình và dịch vụ trong quý thứ ba”.

Còn Indonesia, tốc độ tăng trưởng quý 2 đạt 7,07%. Đây cũng là quý đầu tiên tăng trưởng trở lại sau 5 quý suy giảm, theo cơ quan thống kê Indonesia. Xuất khẩu của Indonesia tăng vọt, tiêu dùng và đầu tư cũng phục hồi, với việc tăng chi tiêu chính phủ làm động lực thúc đẩy.

Tuy nhiên, theo Nikkei, cơ quan thống kê và các chuyên gia kinh tế tại quốc gia này cũng thừa nhận rằng, tốc độ tăng trưởng cao của quý 2 tại Indonesia là do cơ sở thấp, vì quý 2 năm ngoái, họ tăng trưởng âm 5,3%.

Quý 2/2021, Việt Nam đạt mức tăng trưởng 6,6%. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 4,11%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,28%; khu vực dịch vụ tăng 4,30%. Tiêu dùng cuối cùng tăng 3,18% so với cùng kỳ năm trước; tích lũy tài sản tăng 6,05%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 29,81%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 28,53%.

Con số tăng trưởng này của Việt Nam, tuy thấp hơn tương đối với các nước, nhưng dựa trên mức nền quý 2/2020 vẫn tăng trưởng dương 0,4%.

2 Likes

Fed Barkin: Chúng tôi sẽ đến đó để giảm dần trong vài tháng tới

11 Tháng 8 21, 12:43 GMT

Chủ tịch Fed Richmond Thomas Barkin cho biết “chúng tôi đang kết thúc” và ông “rất ủng hộ việc giảm bớt và quay trở lại môi trường bình thường”. Tuy nhiên, thật đáng tin cậy khi nghĩ rằng “chúng ta sẽ đạt được điều đó trong vài tháng tới” và anh ấy chưa muốn cam kết thời gian biểu.

“Tôi muốn tham gia vào thị trường tài sản ở mức bình thường và mức tỷ giá bình thường,” Barkin nói. Nhưng “Tôi cũng nghĩ rằng với tư cách là một ủy ban, khi bạn đưa ra hướng dẫn, bạn sẽ suy nghĩ về nó một cách cẩn thận và sau đó cố gắng hết sức để thực hiện điều đó.”

“Về mặt việc làm, bạn có giả thuyết rằng bạn sẽ mang lại nhiều lợi nhuận hơn. Về lạm phát, bạn có giả thuyết rằng những điều này chỉ là nhất thời,” ông nói. “Tôi cần phải kiểm tra cả hai điều này.”

2 Likes

Bản tóm tắt CPI của Hoa Kỳ: Những hy vọng về một thông báo Jackson Hole Taper đã bị tiêu tan?

11 Tháng 8 21, 13:22 GMT

Một số nhà giao dịch vẫn nuôi hy vọng rằng một bản in lạm phát kinh hoàng khác có thể khiến Fed công bố kế hoạch giảm dần tại Jackson Hole; với dữ liệu ngày nay chỉ đơn thuần đáp ứng kỳ vọng, những hy vọng đó giờ đây có thể bị tiêu tan.

Với việc các thành viên Cục Dự trữ Liên bang ngày càng tỏ ra ngang ngược sau báo cáo NFP mạnh mẽ hôm thứ Sáu, các nhà giao dịch và nhà hoạch định chính sách đã chú ý đến chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Mỹ sáng nay từ tháng 7 như là bản cập nhật quan trọng tiếp theo về hoạt động của nền kinh tế lớn nhất thế giới.

Hóa ra, báo cáo được đưa ra gần đúng với kỳ vọng, với tiêu đề chỉ số CPI tăng 0,5% so với tháng trước như dự đoán và tỷ giá cả năm ở mức 5,4%, cao hơn mức 5,3%. đọc mong đợi. Trong khi đó, chỉ số CPI cốt lõi đạt 0,5% so với tháng trước và 4,3% so với cùng kỳ năm ngoái, phù hợp với kỳ vọng của các nhà kinh tế.

Đáng chú ý, giá ô tô đã qua sử dụng, nguyên nhân gây ra một phần đáng kể áp lực giá trong những tháng gần đây trong bối cảnh thiếu hụt chất bán dẫn toàn cầu, đã tăng “chỉ” 0,2% / m; sự điều tiết trong giá ô tô đã qua sử dụng đại diện cho một câu châm ngôn trong nắp đối với Jerome Powell và phần còn lại của trại “lạm phát là nhất thời” , một sự phát triển có thể làm giảm một số áp lực ngắn hạn đối với ngân hàng trung ương để công bố kế hoạch giảm bớt này tháng.

Như hiện tại, nhiều nhà giao dịch hiện đang mong đợi Fed sẽ đưa ra thông báo về mặt này xung quanh cuộc họp chính sách vào tháng 9, mặc dù vẫn đáng xem Hội nghị chuyên đề Jackson Hole vào cuối tháng này để biết bất kỳ cập nhật hoặc bất ngờ nào.

Phản ứng thị trường

Về mặt cân bằng, chúng tôi đã thấy phản ứng “rủi ro” đối với chỉ số CPI, với chỉ số tương lai của Mỹ tăng cao hơn, lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm chuẩn giảm 3 điểm phần trăm xuống 1,34%, vàng tăng nhanh 10 điểm xuống còn 1746 đô la. cho đến nay, và chỉ số đô la Mỹ đang rút lui 20 pips từ mức kháng cự trong khu vực 93,20 để giao dịch trở lại gần 93,00. Xem những chuyển động này như một bức tranh khảm, phản ứng của thị trường đối với báo cáo CPI cho thấy một số nhà giao dịch vẫn nuôi hy vọng rằng một bản in lạm phát kinh hoàng khác có thể khiến Fed công bố kế hoạch giảm dần tại Jackson Hole; với dữ liệu ngày nay chỉ đơn thuần đáp ứng kỳ vọng, những hy vọng đó giờ đây có thể bị tiêu tan.

Để làm nổi bật một thiết lập cụ thể, NZD / USD là động lực lớn nhất trong số các cặp tiền tệ chính hiện nay. Cặp tiền dường như đang hình thành một mô hình “đáy tròn” tiềm năng gần hỗ trợ ở mức thấp hơn 0,6900 trong hai tháng qua. Bây giờ, các nhà giao dịch sẽ tìm kiếm sự bứt phá lên trên đường EMA 100 ngày và mức kháng cự trước đó gần 0,7100 để xác nhận mô hình và mở ra cơ hội tiếp tục tăng giá đối với vùng kháng cự tiếp theo xung quanh 0,7300.

2 Likes

Dollar Paring Lãi sau khi CPI phát hành, tiền tệ hàng hóa tăng theo chứng khoán tương lai

11 Tháng 8 21, 13:02 GMT

Đồng đô la giảm đáng kể vào đầu phiên giao dịch của Mỹ sau dữ liệu lạm phát của người tiêu dùng. CPI tiêu đề ổn định trong khi CPI cốt lõi chậm lại một chút. Ít nhất, lạm phát đã không trở nên tồi tệ hơn từ “lời hùng biện nhất thời” của Fed. Hợp đồng tương lai của chứng khoán Mỹ cũng tăng vọt, có thể là do lo ngại về thắt chặt tiền tệ giảm bớt. Đô la New Zealand và Đô la Úc hiện là đồng mạnh nhất, tiếp theo là Franc Thụy Sĩ.

Về mặt kỹ thuật, như đã thảo luận trong các báo cáo trước, cuộc biểu tình trước đó của Dollar chủ yếu chống lại Euro, Franc Thụy Sĩ và Yên. Thật vậy, GBP / USD, AUD / USD và USD / CAD đều đang giữ trong phạm vi quen thuộc. Tiêu điểm bây giờ sẽ lần lượt chuyển sang mức kháng cự 1,3982, mức kháng cự 0,7443 và mức hỗ trợ 1,2421, khi đồng đô la đang giảm giá. Ngoài ra, chúng tôi sẽ theo dõi mức kháng cự 81,64 trong AUD / JPY. Break sẽ tiếp tục phục hồi từ 79,82, và báo hiệu sự trở lại ở Úc.

Tại châu Âu, tại thời điểm viết bài, FTSE tăng 0,46%. DAX giảm -0,02%. CAC tăng 0,26%. Lợi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm của Đức giảm -0,0063 xuống -0,460. Trước đó tại châu Á, Nikkei đã tăng 0,65%. HSI của Hồng Kông tăng 0,20%. China Shanghai SSE tăng 0,08%. Singapore Strait Times giảm -0,85%. Lợi suất JGB kỳ hạn 10 năm của Nhật Bản tăng 0,0171 lên 0,042.

CPI của Mỹ không đổi ở mức 5,4% yoy trong tháng 7, CPI lõi giảm xuống 4,3% yoy

CPI của Mỹ tăng 0,5% so với tháng trước, phù hợp với kỳ vọng. Trong 12 tháng qua, CPI tăng 5,4% so với cùng kỳ, không thay đổi so với kết quả của tháng 6, cao hơn kỳ vọng 5,3% so với cùng kỳ.

CPI cơ bản, không bao gồm lương thực và năng lượng, tăng 0,3% so với tháng trước, thấp hơn kỳ vọng 0,4% so với tháng trước. Trong 12 tháng qua, CPI lõi tăng chậm lại 4,3% yoy, giảm từ 4,5% yoy, phù hợp với kỳ vọng.

Fed Barkin: Chúng tôi sẽ đến đó để giảm dần trong vài tháng tới

Chủ tịch Fed Richmond Thomas Barkin cho biết “chúng tôi đang kết thúc” và ông “rất ủng hộ việc giảm bớt và quay trở lại môi trường bình thường”. Tuy nhiên, thật đáng tin cậy khi nghĩ rằng “chúng ta sẽ đạt được điều đó trong vài tháng tới” và anh ấy chưa muốn cam kết thời gian biểu.

“Tôi muốn tham gia vào thị trường tài sản ở mức bình thường và mức tỷ giá bình thường,” Barkin nói. Nhưng “Tôi cũng nghĩ rằng với tư cách là một ủy ban, khi bạn đưa ra hướng dẫn, bạn sẽ suy nghĩ về nó một cách cẩn thận và sau đó cố gắng hết sức để thực hiện điều đó.”

“Về mặt việc làm, bạn có giả thuyết rằng bạn sẽ mang lại nhiều lợi nhuận hơn. Về lạm phát, bạn có giả thuyết rằng những điều này chỉ là nhất thời,” ông nói. “Tôi cần phải kiểm tra cả hai điều này.”

Tâm lý người tiêu dùng Úc Westpac giảm -4,4%, vẫn còn khá tự tin

Tâm lý người tiêu dùng Australia Westpac-MI giảm -4,4% xuống 104,1 trong tháng 8, giảm so với mức 108,8 của tháng 7. Nó hiện đang ở mức thấp nhất trong một năm, nhưng cao hơn rất nhiều so với đáy đại dịch, và thậm chí cao hơn mức trong mười hai tháng trước đại dịch.

Westpac cho biết: “Tình hình vi rút tại địa phương rõ ràng đang gây khó khăn, nhưng người tiêu dùng tỏ ra tin tưởng một cách hợp lý rằng nó sẽ trở lại trong tầm kiểm soát và một khi nó xảy ra, nền kinh tế sẽ quay trở lại đà tăng trưởng mạnh mẽ.”

Westpac hy vọng RBA sẽ không thay đổi chính sách tại cuộc họp tiếp theo vào ngày 7 tháng 9. Nó nói thêm, “với quyết định của mình để ngồi vào tháng 8 mặc dù triển vọng ngắn hạn xấu đi đáng kể, rào cản đối với hành động của RBA có vẻ là rất cao”. Nó cũng duy trì dự báo rằng RBA sẽ bắt đầu tăng tỷ lệ hồ sơ trong quý 1 năm 2023.

1 Likes

Fed Evans muốn xem thêm một vài báo cáo việc làm trước khi giảm dần

11 Tháng 8 21, 04:51 GMT

Chủ tịch Fed Chicago Charles Evans có vẻ thận trọng hơn một số đồng nghiệp FOMC của mình trong chủ đề cắt giảm. Ông thừa nhận rằng Hoa Kỳ đang “đạt được tiến bộ” và “đang trên con đường của chúng tôi” để đạt được những tiến bộ đáng kể hơn nữa. Nhưng, “Tôi muốn xem thêm một vài báo cáo việc làm,” trước khi đưa ra quyết định.

Evans nói: “Mọi người đều tự hỏi về tháng 9, tháng 11, tháng 12, tháng 1”. “Tôi không nghĩ rằng một cuộc họp của cả hai bên sẽ có tác dụng quan trọng.”

Ông nói: “Chúng ta không nên chấm dứt trước sự cải thiện mạnh mẽ của thị trường lao động vì ai đó đang lo lắng về lạm phát. “Tôi sẽ rất hối hận nếu chúng tôi tuyên bố chiến thắng với mức trung bình 2% và sau đó nhận thấy chính mình vào năm 2023 với tỷ lệ lạm phát khoảng 1,8%… Đó sẽ là một thách thức cho khuôn khổ dài hạn của chúng tôi.”

2 Likes

Mỹ: Cơn sốt lạm phát bùng nổ vào tháng 7, khi giá tăng dễ dàng

11 Tháng 8 21, 13:20 GMT

  • Thủy ngân đã giảm nhẹ về giá tiêu dùng trong tháng Bảy, vì mức tăng theo tháng là 0,5%, giảm so với 0,9% trong tháng Sáu. Do đó, lạm phát chính là 5,4% so với cùng kỳ năm trước, phù hợp với tốc độ của tháng Sáu.
  • Giá cơ bản (ví dụ: lương thực và năng lượng) cũng giảm nhẹ, mức tăng nhỏ nhất trong ba tháng. Chỉ số này đã tăng 0,3% so với tháng trước sau khi tăng 0,9% trong tháng Sáu. Điều đó đã đẩy lạm phát cơ bản hàng năm lên 4,3% trong tháng Bảy, giảm nhẹ so với 4,5% trong tháng Sáu.
  • Giá thực phẩm và năng lượng chống lại xu hướng hạ nhiệt rộng rãi hơn, với giá thực phẩm tăng 0,7% so với tháng trước và năng lượng tăng 1,6% so với tháng trước. Chi phí thực phẩm đang tăng trở lại, giống như thời kỳ đầu của đại dịch. Mặt khác, chi phí năng lượng, vốn đã giảm mạnh trong những tháng đầu của đại dịch, hiện đã tăng 23,8% so với mức thấp của một năm trước.
  • Nhiều danh mục liên quan đến du lịch đã tăng mạnh trong những tháng gần đây đã mất đi phần nào trong tháng Bảy. Giá xe đã qua sử dụng tăng khiêm tốn 0,2% so với tháng trước. Giá cho thuê ô tô, xe tải và giá vé máy bay đều giảm. Kết quả là, tập hợp các danh mục này đã đóng góp ít hơn nhiều vào lạm phát cơ bản mà nó có trong giai đoạn từ tháng Ba đến tháng Sáu.
  • Tuy nhiên, các danh mục khác đang bước vào, mặc dù với tốc độ ít đáng sợ hơn. Chi phí tạm trú tăng 0,4% so với tháng trước, chiếm hơn một nửa mức tăng của rổ hàng chính của tháng Bảy. Một phần trong số đó vẫn là mức tăng lành mạnh đối với việc ở xa nhà (+ 6,0% hàng tháng), khi người Mỹ bắt đầu đi du lịch trở lại. Chi phí chăm sóc y tế tăng 0,3% so với tháng trước, sau khi giảm vào tháng 5 và tháng 6. Giá giải trí tăng 0,6% so với tháng trước, tăng từ mức 0,2% của tháng Sáu.

Hàm ý chính

  • Đúng như dự đoán, nhiều đợt tăng giá liên quan đến đợt mở cửa trở lại vào mùa xuân đã bắt đầu hạ nhiệt. Lạm phát “liên quan đến du lịch”, một nhân tố lớn dẫn đến mức cao nhất trong 30 năm của lạm phát cơ bản trong những tháng gần đây đã bắt đầu hạ nhiệt.
  • Tuy nhiên, các danh mục chính khác đang cho thấy áp lực lạm phát trong một nền kinh tế đang vận hành với tốc độ 6% + trong điều kiện thực tế vẫn chưa biến mất. Cụ thể là nơi trú ẩn, nơi đóng vai trò quan trọng trong chỉ số CPI, có dấu hiệu tăng nhiệt. Chúng tôi kỳ vọng nó sẽ giữ lạm phát ở mức gần hoặc trên 2% trong một thời gian. Do đó, một khi việc làm đã đạt được tiến bộ đáng kể, Cục Dự trữ Liên bang có khả năng rời khỏi máy gia tốc tiền tệ và bắt đầu giảm bớt việc mua tài sản vào cuối năm
2 Likes

11 THÁNG 8, 11:33

Việc sản xuất hàng loạt tên lửa cho hệ thống phòng không S-500 bắt đầu ở Nga - nguồn tin

Các cuộc thử nghiệm cấp nhà nước đối với S-500 đang được tiến hành tại một phạm vi thử nghiệm ở miền nam nước Nga

Hệ thống phòng không S-500

© Dịch vụ báo chí của Bộ Quốc phòng Nga / TASS

MOSCOW, ngày 11 tháng 8. / TASS /. Một nguồn tin công nghiệp quốc phòng nói với TASS cho biết, các doanh nghiệp thuộc Almaz-Antey Concern của Nga đã tiến hành sản xuất hàng loạt tên lửa cho hệ thống phòng không S-500 Prometey hiện đang được phát triển.

Ông nói: “Theo hợp đồng giữa Bộ Quốc phòng Nga và Tổ chức Almaz-Antey, được ký vào cuối năm 2020, việc sản xuất tên lửa nối tiếp để chuyển giao cho Lực lượng Hàng không vũ trụ đang được tiến hành.

TASS không có thông tin chính thức về vấn đề này.

Theo một nguồn tin khác, các cuộc thử nghiệm cấp nhà nước đối với S-500 “đang được tiến hành tại một phạm vi thử nghiệm ở miền nam nước Nga.” Chúng dự kiến ​​sẽ được hoàn thành vào cuối năm 2021.

Văn phòng báo chí Bộ Quốc phòng cho biết ngày 20/7, hệ thống tên lửa phòng không S-500 tiên tiến do Nga sản xuất đã bắn trúng mục tiêu đạn đạo tốc độ cao ở tầm Kapustin Yar trong một vụ phóng thử nghiệm.

Tại cuộc gặp với sinh viên tốt nghiệp các trường đại học quân sự ở Điện Kremlin, Tổng thống Nga Vladimir Putin cho biết các vũ khí độc đáo mới sẽ sớm đi vào nhiệm vụ chiến đấu ở Nga, bao gồm tên lửa đạn đạo xuyên lục địa Sarmat, tên lửa siêu thanh đối hạm Tsirkon, tên lửa đất đối không S-500 Prometei. - hệ thống tên lửa hàng không, và những hệ thống khác. Các vũ khí siêu thanh - Avangard và Kinzhal - đã đi vào nhiệm vụ chiến đấu, ông nói thêm.

Hệ thống tên lửa S-500 không có hệ thống tương tự trên thế giới và được thiết kế để tấn công toàn bộ các loại vũ khí tấn công hàng không vũ trụ đang hoạt động và tiềm năng. Nó có thể loại bỏ tất cả các loại vũ khí tấn công hàng không vũ trụ hiện có và tiềm năng, bao gồm cả các phương tiện tái kích ICBM, ở độ cao lên tới 200 km và ở tầm bắn lên tới 500 km. S-500 được thiết kế để thay thế hệ thống phòng không S-400 Triumf.

2 Likes

11 THÁNG 8, 19:05

Sputnik V chứng minh tính an toàn, hiệu quả cao nhất của nó, người đứng đầu RDIF cho biết

RDIF lưu ý rằng dữ liệu thu được trong quá trình tiêm chủng hàng loạt với Sputnik V ở Argentina, Bahrain, Hungary, Mexico, Nga, Serbia, Philippines và UAE cho thấy không có các tác dụng phụ nghiêm trọng.

Giám đốc điều hành Quỹ đầu tư trực tiếp Nga Kirill Dmitriev

© Mikhail Metzel / TASS

MOSCOW, ngày 11 tháng 8. / TASS /. Người đứng đầu Quỹ đầu tư trực tiếp Nga (RDIF) Kirill Dmitriev cho biết vắc xin Sputnik V đã được chứng minh tính an toàn và hiệu quả cao nhất trong năm kể từ khi được chứng nhận chính thức.

“Trong năm sau khi được ủy quyền ban đầu, vắc xin Sputnik V đã chứng minh được tính an toàn và hiệu quả cao nhất như đã được xác nhận bởi dữ liệu tiêm chủng thực tế từ các quốc gia hàng đầu”, dịch vụ báo chí của Quỹ dẫn lời ông cho biết.

RDIF lưu ý rằng dữ liệu thu được trong quá trình tiêm chủng hàng loạt với Sputnik V ở Argentina, Bahrain, Hungary, Mexico, Nga, Serbia, Philippines và UAE cho thấy không có các tác dụng phụ nghiêm trọng, bao gồm viêm cơ tim hoặc huyết khối tĩnh mạch não. Ngoài ra, ở những quốc gia sử dụng đồng thời nhiều loại vắc xin, vắc xin của Nga đã chứng minh một trong những thông số an toàn và hiệu quả tốt nhất, dịch vụ báo chí nhấn mạnh.

Sputnik V đã được chứng nhận tại Nga vào ngày 11 tháng 8 năm 2020, trở thành vắc xin được đăng ký chính thức đầu tiên chống lại coronavirus trên toàn thế giới. Nó trở thành chế phẩm đầu tiên trên nền tảng adenoviral được phát triển bằng cách sử dụng cách tiếp cận tăng cường không đồng nhất (“vắc-xin vắc-xin”) độc đáo. Nhờ sử dụng hai vectơ khác nhau cho hai thành phần của vắc-xin, đáp ứng miễn dịch mạnh hơn và bền hơn đã đạt được.

Cho đến nay, Sputnik V đã được chứng nhận tại 69 quốc gia với tổng dân số vượt qua 3,7 tỷ người.

2 Likes

11 THÁNG 8, 18:55

Khả năng miễn dịch của bầy đàn sẽ chỉ xuất hiện ở Nga sau 7-10 năm mà không cần tiêm chủng - chuyên gia

Nhà dịch tễ học nhớ lại rằng các đột biến vi rút chỉ xảy ra ở một sinh vật không có khả năng miễn dịch

MOSCOW, ngày 11 tháng 8. / TASS /. Phó Giám đốc Nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Dịch tễ Trung ương Alexander Gorelov cho biết trong một cuộc phỏng vấn với Channel One hôm thứ Tư, việc phát triển khả năng miễn dịch của bầy đàn đối với coronavirus ở Nga một cách tự nhiên sẽ mất từ ​​7-10 năm.

Ông nói: “Nếu chúng ta xem xét cơ chế tự nhiên của sự phát triển, hình thành miễn dịch là 60-70% thì sẽ mất 7-10 năm.

Nhà dịch tễ học nhớ lại rằng các đột biến vi rút chỉ xảy ra ở một sinh vật không có khả năng miễn dịch.

“Khi tỷ lệ bao phủ tiêm chủng đạt đến con số này [60-70%], chúng tôi sẽ trao cơ hội cho 6% những người vì lý do sức khỏe không thể tiêm chủng có thể cứu sống họ mà không gặp phải đường cong lây nhiễm,” Gorelov nói thêm.

Theo báo cáo trước đó, Nga đã xác nhận 21.571 trường hợp COVID-19 trong ngày qua, và tổng số trường hợp kiểm đếm là 6.512.859 trường hợp. Về mặt tương đối, tỷ lệ mắc bệnh tăng 0,33%.

Moscow đã đăng ký 2.076 trường hợp nhiễm coronavirus trong ngày qua. Khoảng 1.804 trường hợp COVID-19 được ghi nhận ở St.Petersburg, 1.054 trường hợp ở Vùng Moscow, 535 trường hợp ở Vùng Nizhny Novgorod, 521 trường hợp ở Vùng Sverdlovsk và 483 ở Vùng Rostov. Hiện tại, 536.841 người đang điều trị COVID-19 ở Nga.

2 Likes