NGƯỜI VIỆT NAM ĐẦU TIÊN ĐẶT CHÂN ĐẾN MỸ
Đó chính là ông Trần Trọng Khiêm, sinh năm 1821 quê làng Xuân Lũng, phủ Lâm Thao, nay là xã Xuân Lũng (Lâm Thao, Phú Thọ).
Ông Trần Trọng Khiêm vốn sinh ra trong một gia đình thế gia vọng tộc. Vào năm 20 tuổi do điều kiện buôn bán nên ông thường phải vắng nhà. Lợi dụng điều đó tên Cai tổng trong làng luôn tìm mọi cách để quyến rũ vợ ông. Một sớm nọ bà đi chợ, tên Cai tổng đã bất ngờ cho lính bắt cóc đưa về nhà cưỡng bức. Bà kiên quyết chống cự lại nên bị đánh chết và vứt xác mất tích. Khi ông Khiêm về nhà nghe chuyện, quá uất hận ông liền cầm dao giết chết tên Cai tổng để trả thù cho vợ. Sau đó bị truy nã, ông phải trốn xuống Phố Hiến (Hưng Yên) làm việc trong một tàu buôn ngoại quốc.
Lênh đênh trên con tàu định mệnh suốt 12 năm ròng từ 1842 - 1854, Trần Trọng Khiêm đã đi qua rất nhiều vùng đất xa lạ mà chưa người Việt Nam nào từng tới. Do trí tuệ sắc sảo, đến đâu ông cũng học được ngoại ngữ của các nước đó. Đến năm 1849 thì ông đặt chân đến TP New Orleans (Hoa Kỳ). Sau khi đến Hoa Kỳ, Trần Trọng Khiêm cải trang thành một người Hoa và đổi tên là Lê Kim. Ông tham gia vào đoàn đào vàng do một người Canada tên là Mark làm thủ lĩnh.
Để tham gia đoàn người này tất cả các thành viên phải góp công của và tiền bạc. Phần Lê Kim ông đã góp 200 Mỹ kim để mua lương thực và vũ khí. Trong gần 2 năm, Lê Kim đã sống cuộc đời của một cao bồi miền Tây thực thụ. Đoàn của Lê Kim có 60 người nhưng Lê Kim đặc biệt được thủ lĩnh Mark yêu quý và tin tưởng. Do biết rất nhiều ngoại ngữ như tiếng Hà Lan, Trung, Pháp nên ông được ủy nhiệm làm liên lạc viên cho thủ lĩnh Mark và thông ngôn trong đoàn. Ông cũng thường xuyên nói với mọi người rằng ông biết tiếng Việt Nam nhưng tiếng Việt hầu như không cần dùng đến.
Miền Tây bang California ngày ấy là nơi mà cuộc sống luôn bị rình rập bởi những hiểm nguy do thú dữ, núi lửa, động đất và đấu súng. Để đến được California tìm vàng, đoàn của Lê Kim thường xuyên đối mặt với hiểm họa đói khát và sự tấn công của người da đỏ. Ngoài ra sốt rét và rắn độc cũng đã cướp đi mất quá nửa số thành viên trong đoàn của Lê Kim.
TRỞ THÀNH NHÀ BÁO
Sau khi tích trữ được chút vàng làm vốn liếng, Lê Kim từ bỏ công việc tìm vàng đầy nguy hiểm và quay trở lại San Francisco. Vào giữa thế kỷ 19 San Francisco vẫn còn là một thị trấn đầy bụi bặm và trộm cướp. Tuy nhiên bằng sự nhanh nhạy thông minh Lê Kim đã nhanh chóng xin được công việc chạy tin tự do cho nhiều tờ báo. Rồi sau đó ông làm biên tập cho tờ nhật báo Daily Evening. Nhiều bài báo của ông đăng trên tờ Daily Evening hiện vẫn còn lưu giữ ở thư viện Đại học California.
Đề tài mà Lê Kim thường viết là về cuộc sống đầy hiểm họa và cay đắng của những người khai hoang ở bắc California và quanh khu vực San Francisco. Trong đó ông hướng sự thương cảm sâu sắc đến những người da vàng mà thời đó vẫn là nạn nhân của sự phân biệt chủng tộc. Lê Kim cho rằng các mỏ vàng đã khiến cuộc sống ở đây trở nên khắc nghiệt và sa đọa không gì cứu vãn được.
Đặc biệt, trong số báo ra ngày 8/11/1853 có một bài báo đã kể chi tiết về cuộc gặp giữa Lê Kim và vị tướng Hoa Kỳ John A. Sutter.
Tướng Sutter vốn là người có công khai phá thị trấn San Francisco. Khi Lê Kim mới đến đây, ông đã được tướng Sutter giúp đỡ. Tuy nhiên khi bị lật đổ, tướng Sutter trở nên bị tâm thần và sống lang thang ở khắp các bến tàu để xin ăn, không ai đoái hoài đến. Sau này trong một dịp tình cờ gặp lại, Lê Kim đã xúc động cho vị tướng bất hạnh 200 Mỹ kim. Đồng thời ông chê trách thái độ hững hờ, ghẻ lạnh của người dân San Francisco và nước Mỹ đối với tướng Sutter, điều mà theo ông là đi ngược với đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ông.
Đến năm 1854, khi đã quá mệt mỏi với cuộc sống hỗn loạn ở Hoa Kỳ, Lê Kim tìm đường trở lại Việt Nam. Vì vẫn bị truy nã nên ông không trở về quê nhà Phú Thọ mà phải lấy thân phận là người Minh Hương đi khai hoang ở tỉnh Định Tường. Ông chính là người có công khai hoang, sáng lập ra làng Hòa An, phủ Tân Thành, tỉnh Định Tường.
Trong bức thư bằng chữ Nôm gửi về cho người anh ruột Trần Mạnh Trí ở làng Xuân Lũng vào năm 1860, Lê Kim đã kể tường tận hành trình hơn 10 năm phiêu dạt của mình trên con tàu định mệnh đến những ngày tháng đầy khắc nghiệt ở Hoa Kỳ rồi cuối cùng trở về an cư lạc nghiệp ở Định Tường.
KHỞI NGHĨA CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
Năm 1864 quân Pháp sau khi đánh chiếm xong ba tỉnh miền Đông bắt đầu lần lượt mở các cuộc tấn công ba tỉnh miền Tây còn lại. Để cản ngăn quân xâm lược, Lê Kim đã tình nguyện theo thủ lĩnh Võ Duy Dương mộ quân khởi nghĩa chống Pháp.
Tài bắn súng học được trong những năm tháng ở miền Tây Hoa Kỳ cùng với kinh nghiệm xây thành đắp lũy đã khiến ông trở thành một vị tướng giỏi lẫy lừng. Ngoài ra đặc biệt năng khiếu ngoại ngữ cũng giúp Lê Kim cảm hóa được một nhóm lính Pháp và dùng chính nhóm lính này tấn công quân Pháp ở Cái Bè, Mỹ Qưới.
Năm 1866 trong một đợt truy quét của thực dân Pháp do tướng De Lagrandière chỉ huy, đồn quân của Lê Kim chẳng may thất thủ. Không cam chịu đầu hàng, Lê Kim đã tuẫn tiết chết theo nghĩa binh. Năm đó ông vừa tròn 45 tuổi. Trên mộ của Lê Kim ở Giồng Tháp (Đồng Tháp) đến ngày hôm nay còn khắc đôi câu đối:
" Lòng trời không tựa, tấm gương tiết nghĩa vì nước quyên sinh
Chính khí nêu cao, tinh thần hùng nhị còn truyền hậu thế”.
Như vậy không chỉ là NGƯỜI ĐẦU TIÊN ĐẶT CHÂN LÊN ĐẤT HOA KỲ, Lê Kim còn là một trong những nhà yêu nước của Việt Nam. Để ghi nhớ công lao của ông, hiện ở phường Long Bình, quận 9, TPHCM vẫn còn con đường mang tên Trần Trọng Khiêm, nối đường Nguyễn Xiển với đường Mạc Hiển Tích.
- Theo “Con đường thiên lý” của học giả Nguyễn Hiến Lê .