Năm 1990, quy mô GDP của Việt Nam đạt khoảng 8,7 tỷ USD, chỉ bằng 1/10 GDP của Thái Lan (88 tỷ USD).
Theo dữ liệu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), năm 1990, quy mô GDP của Thái Lan gấp 10 lần Việt Nam. Tuy nhiên, đến nay tỷ lệ này đã có sự thay đổi rõ rệt.
Cụ thể, năm 2022, quy mô GDP của Việt Nam đạt khoảng 406,45 tỷ USD và quy mô GDP của Thái Lan đạt khoảng 536,16 tỷ USD. Theo đó, GDP của Thái Lan gấp khoảng 1,32 lần GDP của Việt Nam. Theo đó, sau 32 năm, GDP của Thái Lan từng gấp 10 lần Việt Nam thì đến nay giảm xuống còn 1,32 lần.
Theo dự báo của IMF, năm 2023, GDP của Việt Nam đạt khoảng 449,1 tỷ USD và quy mô GDP của Thái Lan đạt khoảng 574,23 tỷ USD. Theo đó, GDP của Thái Lan gấp khoảng 1,3 lần GDP của Việt Nam.
GDP Việt Nam và Thái Lan giai đoạn 1990-2022 và dự báo giai đoạn 2023-2028. Nguồn: IMF.
Đến năm 2028, IMF dự báo quy mô GDP của Việt Nam bắt kịp Thái Lan. Cụ thể, quy mô GDP Việt Nam đạt khoảng 750 tỷ USD và GDP Thái Lan đạt khoảng 767 tỷ USD vào năm 2028.
Xét riêng Việt Nam, theo Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 và Kế hoạch thực hiện Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, cả nước phấn đấu đạt các mục tiêu, chỉ tiêu và hoàn thành các nhiệm vụ trọng tâm của Quy hoạch tổng thể quốc gia đến năm 2030.
Phấn đấu tốc độ tăng trưởng GDP cả nước bình quân đạt khoảng 7%/năm giai đoạn 2021-2030. Đến năm 2030, GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt khoảng 7.500 USD.
Đến năm 2050, Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại. Hệ thống đô thị thông minh, hiện đại, giàu bản sắc, xanh.
Phát triển các vùng hài hoà, bền vững. Giá trị, bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc được giữ gìn, phát huy. Môi trường có chất lượng tốt, xã hội hài hòa với thiên nhiên, phát triển hiệu quả theo hướng cac-bon thấp; phấn đấu nhanh nhất đạt mục tiêu giảm phát thải ròng của quốc gia về “0” vào năm 2050.
Các nước trong khối ASEAN
Năm 1990, GDP Việt Nam xếp thứ 6 trong khối ASEAN, xếp sau Indonesia, Thái Lan, Malaysia, Philippines và Singapore.
Năm 2022, Indonesia là quốc gia có quy mô GDP lớn nhất trong khối ASEAN, đạt khoảng 1.318 tỷ USD. Xếp thứ hai là Thái Lan với quy mô GDP đạt khoảng 536,16 tỷ USD. Singapore xếp thứ 3 với quy mô GDP đạt khoảng 466,79 tỷ USD. Malaysia xếp thứ 4 với quy mô GDP đạt khoảng 407,92 tỷ USD. Quy mô GDP Việt Nam xếp thứ 5 trong khối ASEAN. GDP Philippines đạt khoảng 404,26 tỷ USD, xếp thứ 6 trong khu vực Đông Nam Á.
Myanmar, Campuchia, Brunei và Lào lần lượt xếp thứ 7, 8, 9, 10 với quy mô GDP đạt 56,76 tỷ USD; 28,54 tỷ USD; 16,64 tỷ USD; 15,31 tỷ USD vào năm 2022.
Năm 2023, Việt Nam được IMF dự báo quy mô GDP đạt khoảng 449,1 tỷ USD, xếp thứ 4 trong khối ASEAN. Trong khi đó, Indonesia vẫn được dự báo xếp thứ nhất với quy mô GDP đạt khoảng 1.392 tỷ USD.
Thái Lan được dự báo xếp thứ 2 với quy mô GDP đạt khoảng 574,23 tỷ USD. Singapore xếp thứ 3 với quy mô GDP đạt khoảng 515,55 tỷ USD. GDP Malaysia đạt khoảng 447,03 tỷ USD, xếp thứ 5 trong khối ASEAN
Philippines, Myanmar, Campuchia, Brunei và Lào được dự báo xếp thứ 6, 7, 8, 9, 10 với quy mô GDP đạt 440,9 tỷ USD; 64 tỷ USD; 30,63 tỷ USD; 15,51 tỷ USD; 14,1 tỷ USD vào năm 2023.
GDP các nước trong khối ASEAN giai đoạn 1990-2022 và dự báo giai đoạn 2023-2028. Nguồn: IMF.
Đến năm 2028, quy mô GDP Việt Nam được IMF dự báo đạt khoảng 750 tỷ USD, bám sát Thái Lam và xếp thứ 3 trong khối ASERAN. Trong khi đó, Indonesia vẫn được dự báo xếp thứ nhất với quy mô GDP đạt khoảng 2.048 tỷ USD.
Thái Lan được dự báo xếp thứ 2 với quy mô GDP đạt khoảng 767 tỷ USD. Singapore xếp thứ 4 với quy mô GDP đạt khoảng 641,32 tỷ USD. GDP Philippines đạt khoảng 640,18 tỷ USD, xếp thứ 5 trong khu vực Đông Nam Á.
Malaysia, Myanmar, Campuchia, Brunei và Lào được dự báo xếp thứ 6, 7, 8, 9, 10 với quy mô GDP đạt 635 tỷ USD; 82,78 tỷ USD; 44,66 tỷ USD; 18,21 tỷ USD; 17,7 tỷ USD vào năm 2028.