Cập nhật nhóm ngành Ngân hàng

I. Tình hình nợ xấu ngành Ngân hàng trong 1Q25

  1. Nợ xấu nội bảng quay đầu tăng mạnh:
  • Tăng hơn 37 nghìn tỷ đồng, tương đương +16% QoQ, sau khi đã giảm 25 nghìn tỷ đồng trong 4Q24.

  • Quy mô nợ xấu nội bảng cuối 1Q25 đạt 265 nghìn tỷ đồng, tương ứng tỷ lệ nợ xấu 2,16% (so với 1,92% cuối 2024).

  1. Nợ xấu hình thành ròng (gross NPL formation):
  • Đạt 64,5 nghìn tỷ đồng, tăng gần 6 lần so với 11 nghìn tỷ đồng quý trước.

  • Trong đó:

    • Nhóm ngân hàng (không gồm công ty tài chính tiêu dùng): 57,5 nghìn tỷ đồng.

    • Tập trung ở 4 ngân hàng: BID, CTG, VPB, MBB (chiếm 69%).

  1. Nợ nhóm 2 tăng nhẹ:
  • Tăng 7 nghìn tỷ đồng, chấm dứt chuỗi 3 quý giảm liên tiếp.

  • Nếu phần lớn nợ xấu 1Q25 phát sinh từ nợ nhóm 2 thì quy mô nợ nhóm 2 ước tính tăng hơn 70 nghìn tỷ đồng (~0,6% nợ nhóm 1 cuối 2024).


II. Phân hóa giữa nhóm ngân hàng

  1. Ngân hàng quốc doanh (BID, CTG):
  • Nợ xấu 1Q25 chủ yếu từ các khoản cơ cấu lại trước đó, liên quan đến doanh nghiệp vật liệu xây dựng.

  • Các khoản này vượt thời gian thử thách và sẽ quay lại nhóm nợ đủ tiêu chuẩn trong 2Q25.

  1. NHTMCP (VPB, MBB…):
  • Nợ xấu mới chủ yếu từ khách hàng cá nhân vay BĐS tại các dự án vướng pháp lý, chậm bàn giao.

  • Rủi ro vẫn cao trong 2Q25 do chưa giải quyết xong vấn đề pháp lý.


III. Lãi, phí dự thu tăng mạnh trở lại

  1. Tăng 20% QoQ, lên hơn 163 nghìn tỷ đồng, vượt tốc độ tăng tài sản sinh lãi (chỉ 2,7%).

  2. Nguyên nhân:

  • Dồn tích lãi do kéo dài thời gian trả nợ.

  • Thu hồi lãi phải thu từ khoản nợ quá hạn nội bảng.

  • Yếu tố mùa vụ (quý đầu năm thường tăng mạnh).

  1. Tỷ lệ lãi dự thu/TTSL vẫn ở mức thấp 1,0%, so với thời Covid (1,3%) và 2015–2019 (1,8%).

IV. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLR) giảm đáng kể

  1. Toàn ngành: Giảm từ 110% xuống 92%.

  2. Ngân hàng nhà nước: LLR vẫn cao, ở 132% (giảm từ 167%).

  3. NHTMCP:

  • LLR giảm xuống 56% (4Q24: 62%).

  • Áp lực trích lập dự phòng sẽ tăng mạnh do:

    • Tỷ trọng nợ nhóm 2–4 cao nhưng chưa được trích lập đủ.

    • Rủi ro phát sinh từ nợ nhóm 2.


V. Rủi ro và triển vọng sắp tới

  1. Nợ xấu tiềm ẩn còn cao (~193 nghìn tỷ đồng):
  • Bao gồm: nợ VAMC, nợ cơ cấu theo Thông tư 02, nợ có rủi ro cao, dư nợ KH chịu tác động chính sách đối ứng.
  1. Dự kiến nợ xấu vẫn tăng trong 2Q25, nhưng:
  • Ngân hàng quốc doanh có thể được hoàn nhập dự phòng.

  • NHTMCP vẫn chịu rủi ro từ cho vay BĐS cá nhân.

Tư vấn mở tài khoản chứng khoán:

Margin 3:7 lãi 9.9%/năm, phí 0.15%

Bảo lãnh thêm sức mua đầu ngày

Có hàng T0

Điện thoại: 0912107487

1 Likes

Cổ đông bank đâu hết rồi.

Trong nhiệm kỳ đầu tiên của mình, Tổng thống Trump đã buộc các công ty phải từ bỏ sự phụ thuộc vào Trung Quốc. Bây giờ, ông đang thúc đẩy các nước loại bỏ Trung Quốc khỏi chuỗi cung ứng của họ.

Một hiệp định thương mại sơ bộ giữa Việt Nam và Mỹ được công bố vào thứ Tư là bước tiến quan trọng nhất cho đến nay hướng tới mục tiêu đó. Mặc dù thông tin chi tiết còn ít, nhưng hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ sẽ phải chịu mức thuế 20 phần trăm, thấp hơn nhiều so với mức thuế cao hơn nhiều mà ông Trump đã đe dọa.

Nhưng đáng chú ý là thỏa thuận này sẽ áp dụng mức thuế 40% đối với bất kỳ hàng xuất khẩu nào từ Việt Nam được phân loại là hàng trung chuyển hoặc hàng hóa có nguồn gốc từ một quốc gia khác và chỉ dùng Việt Nam như quốc gia trung gian.

Hình phạt này nhằm vào Trung Quốc, quốc gia đã sử dụng Việt Nam và các nước láng giềng để né tránh thuế quan của Mỹ đối với hàng hóa của mình. Và nó có thể trở thành một đặc điểm của các thỏa thuận thương mại của Mỹ với các chính phủ Đông Nam Á khác khi họ cố gắng tránh mức thuế cao ngất ngưởng sẽ có hiệu lực vào ngày 9/7/2025.

Các nhà đàm phán thương mại của ông Trump đang thúc đẩy các nước láng giềng định hướng xuất khẩu của Việt Nam như Indonesia giảm lượng hàng hóa Trung Quốc trong chuỗi cung ứng của họ. Họ đang yêu cầu chính phủ Thái Lan sàng lọc đầu tư nước ngoài vào, hy vọng ngăn chặn các doanh nghiệp Trung Quốc chuyển vào nước này. Họ thậm chí còn gây sức ép buộc một số quốc gia xem xét kiểm soát xuất khẩu công nghệ như chất bán dẫn.

“Chính quyền Trump đang nói rằng, ‘Chúng ta cần thấy sự tách biệt chiến lược nếu bạn muốn trở thành đối tác thương mại với Mỹ’”, Steve Okun, giám đốc điều hành của APAC Advisors, một công ty tư vấn địa chính trị, cho biết. “Câu hỏi đặt ra là, các quốc gia có đồng ý với điều đó không?”

Những nỗ lực của Mỹ nhằm cô lập Trung Quốc làm gia tăng thêm những điểm yếu mà các quốc gia ở Đông Nam Á phải đối mặt, một khu vực có tầm quan trọng chiến lược đối với Bắc Kinh và hiện đang ở tuyến đầu trong sự thống trị của Trung Quốc đối với thương mại và sản xuất toàn cầu. Vào thứ năm, Bộ thương mại Trung Quốc cho biết họ đang “tiến hành đánh giá” thỏa thuận Mỹ-Việt Nam, đồng thời nói thêm rằng họ kiên quyết phản đối bất kỳ thỏa thuận nào “gây tổn hại đến lợi ích của Trung Quốc” và sẽ “thực hiện các biện pháp đối phó để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình”.

Các điều khoản thương mại mà Mỹ và Việt Nam đã thống nhất cho đến nay cũng sẽ phụ thuộc vào cách chúng được định nghĩa - ví dụ, lượng đầu vào của Trung Quốc được phép có trong hàng xuất khẩu của Việt Nam và cách các điều khoản sẽ được thực thi.

Việt Nam phải đặt cược tất cả mọi thứ khi tham gia đàm phán thương mại với Mỹ. Ông Trump đã đe dọa đánh thuế nhập khẩu 46% đối với hàng hóa của Việt Nam, gây chấn động đến các ngành công nghiệp như giày dép, hàng may mặc và đồ điện tử, vốn phụ thuộc vào Việt Nam như một lựa chọn thay thế cho Trung Quốc.

Sự bất ổn do lời đe dọa áp thuế của ông Trump gây ra đang đè nặng lên các doanh nghiệp Việt Nam.

Trần Quang, giám đốc điều hành của một công ty nước hoa gia dụng, mà xuất khẩu gần như toàn bộ sản phẩm của mình sang Mỹ, cho biết mức thuế 20% không phải là kịch bản tốt nhất đối với bất kỳ ai. “Nhưng nó không đến nỗi tệ”, ông nói.

Ông nói thêm rằng ông ủng hộ việc tăng thuế trung chuyển vì nó có thể giúp các doanh nghiệp Việt Nam đối mặt với sự cạnh tranh không lành mạnh từ các công ty Trung Quốc mà đã đầu tư vào Việt Nam để né tránh thuế quan.

“Có rất nhiều doanh nghiệp nhỏ của Trung Quốc đến Việt Nam chỉ để dán nhãn lại sản phẩm của họ trước khi xuất khẩu sang Mỹ”, ông nói.

Hoạt động thương mại và đầu tư từ các công ty Trung Quốc đã giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam và khu vực, nhưng Đông Nam Á đang phải vật lộn để đẩy lùi dòng hàng hóa từ Trung Quốc đang khiến các công ty trong nước phá sản. Trong những năm gần đây, khi nền kinh tế Trung Quốc bị đe dọa bởi cuộc khủng hoảng bất động sản, chính phủ đã trợ cấp mạnh cho các nhà máy, dẫn đến sự gia tăng xuất khẩu của Trung Quốc trên toàn thế giới.

Nhưng những hạn chế đối với hoạt động thương mại của Trung Quốc trong khu vực có nguy cơ gây ra các phản ứng dây chuyền có thể gây tổn hại đến các nước Đông Nam Á.

Các chuyên gia cho biết việc thiếu thông tin được công bố cho đến nay về thỏa thuận với Việt Nam khiến việc đánh giá đầy đủ tác động của nó là không thể. Trung chuyển có thể đề cập đến các sản phẩm có nguồn gốc từ Trung Quốc. Nó cũng có thể bao gồm những thứ được sản xuất tại Việt Nam nhưng có một tỷ lệ nhất định các thành phần đến từ Trung Quốc.

Nhưng nếu các hạn chế đối với các thành phần của Trung Quốc trở nên nghiêm ngặt, các công ty Mỹ có thể chuyển hoạt động sản xuất của họ ra khỏi Việt Nam, Matt Priest, giám đốc điều hành của Footwear Distributors and Retailers of America, một nhóm thương mại cho biết.

“Nếu quy định là quá nặng nề hoặc khó tuân thủ, các công ty sẽ không tận dụng cơ hội này để phát triển nguồn cung ứng tại Việt Nam”, ông nói. “Họ thậm chí có thể quay trở lại Trung Quốc nếu giá cả cạnh tranh”.

Hiệp định với Việt Nam cũng để lại sự không chắc chắn cho các doanh nghiệp khi họ chờ xem các nước Đông Nam Á khác đồng ý áp dụng loại thuế quan và hạn chế nào đối với Trung Quốc trong các thỏa thuận tiềm năng với chính quyền Trump.

Những hạn chế về lượng hàng hóa Trung Quốc trong các sản phẩm xuất khẩu cũng gây gánh nặng cho các viên chức hải quan địa phương, những người chưa bao giờ được yêu cầu kiểm tra kỹ lưỡng hàng xuất khẩu như vậy. Điều này làm dấy lên câu hỏi về mức độ hiệu quả của chúng. Một số quốc gia thậm chí đã thảo luận về việc thiết lập các chuỗi cung ứng hoàn toàn khác cho Mỹ.

Washington cũng có nguy cơ đẩy một số quốc gia có sự hội nhập sâu sắc với nền kinh tế Trung Quốc vào vòng tay của Bắc Kinh.

Nhiều chính phủ châu Á lo ngại về cách Trung Quốc có thể phản ứng với các thỏa thuận nhằm cô lập các công ty Trung Quốc. Bắc Kinh đã cho thấy rằng họ sẵn sàng thực hiện các biện pháp trả đũa ngày càng quyết liệt như tẩy chay sản phẩm và hạn chế các khoáng sản quan trọng mà các nước láng giềng phụ thuộc vào. Họ cũng đã chuyển sang gia tăng căng thẳng ở Biển Đông, nơi họ đã đưa ra các tuyên bố quân sự đối với phần lớn tuyến đường thủy này.

Pavida Pananond, giáo sư Kinh doanh quốc tế tại Đại học Thammasat ở Thái Lan, cho biết: “Về mặt chính trị, chúng ta phải cẩn thận giữa hai siêu cường”. “Trung Quốc là một cường quốc kinh tế rất quan trọng, không chỉ là nước nhập khẩu hàng hóa mà còn là nguồn đầu tư và điểm đến cho hàng xuất khẩu”.

Các nước Đông Nam Á đã có những bước đi riêng để thắt chặt giám sát và thực thi việc trung chuyển trong những tuần gần đây, cung cấp một số thông tin chi tiết về những gì họ có thể đồng ý trong các hiệp định thương mại của riêng họ với Washington.

Tại Thái Lan, nơi ông Trump đã đe dọa áp thuế 36%, chính phủ ước tính rằng các hành động kiểm tra chặt chẽ hàng xuất khẩu để trung chuyển có thể làm giảm 15 tỷ đô la xuất khẩu sang Mỹ, tương đương với một phần ba thặng dư thương mại của Thái Lan với Washington vào năm ngoái. Chính phủ Thái Lan cũng đã hứa sẽ xem xét kỹ hơn các khoản đầu tư nước ngoài vào các lĩnh vực, như xe điện, nơi các công ty Trung Quốc đã đầu tư rất nhiều tiền để đưa các nhà cung cấp của riêng họ vào Thái Lan.

Các nhà chức trách ở Malaysia và Indonesia đã thắt chặt các quy tắc xuất khẩu để đảm bảo rằng các lô hàng đến Mỹ được ghi chép chính xác. Cả hai quốc gia này cũng tập trung thẩm quyền cấp giấy chứng nhận xuất khẩu.

Ngay cả trước khi bất kỳ thỏa thuận thương mại nào được đàm phán, chính quyền Trump đang định hình lại cách khu vực này nhìn nhận về Trung Quốc.

“Ý tưởng là loại bỏ Trung Quốc”, Deborah Elms, người đứng đầu chính sách thương mại tại Hinrich Foundation, một tổ chức tập trung vào thương mại, cho biết.

Nhưng đối với các quốc gia như Việt Nam, việc đi theo những gì Mỹ muốn là rủi ro về mặt địa chính trị.

1 Likes

đang xem xét bỏ room tín dụng.tín dụng sẽ bùng nổ nữa cô em hehe.

OK bro.

Bank chạy rồi anh em ơi.

Xin giá bác vùng mở mua mới bid với ạ