Tým
Chúc mừng Pet cưng nhà bác Jun nha
Canh mua cungc mệt quá các bác.hihi
Cái gì, nữa hả
Chưa đỏ mà bác
PET cưng - Con chào các cô chú buổi trưa ạ !
Niềm tin là một thứ gì đó rất xa xỉ ở cái thị trường này. Một nơi sục sôi tiền. Tôi thấu hiểu các bạn !
Niềm tin là một thứ gì đó xa xỉ giữa chợ người, chợ đời.
Ai rồi cũng sẽ khát !
Ai rồi cũng sẽ khác. Cả em - Em cũng vậy PET à.
Anh đừng tìm PET thú của anh ngày xưa nữa. PET thú của anh ngày xưa đã chết rồi.
Niềm tin là một thứ gì đó vô cùng xa xỉ ở cái thị trường này. Một nơi sục sôi tiền. Tôi thấu hiểu các bạn !
Niềm tin là một thứ gì đó xa xỉ giữa chợ người, chợ đời……
Vốn hoá của một tập đoàn bán lẻ có doanh thu 18.000 tỷ/năm chỉ chưa tới 2.000 tỷ !!!
Không thể tin được.

Ý này hay mà, giá trị mà, do anh Chun quanh năm spam lảm nhảm nên người ta xem thường, lời nói vô giá trị.
PET ngon quá bác CHUN!
Chưa CE mà bác
PET thú
Sao bảo kinh tế suy thoái, không ai mua sắm gì cả, bán lẻ khó khăn mà….…
Sao bảo tuyệt đối tránh xa ngành bán lẻ…
Các cụ lừa em à !!!
Chả hiểu nổi
Hay nó tăng ảo nhỉ
Pet đẳng cấp. Chúc mừng các cổ đông pet. Em lại lỡ vào psd con của pet. Chờ đợi vậy
Chào cả nhà mình ngày mới
Chúc cả nhà mình một ngày tốt lành

ĐỨC GIÁM MỤC JEAN CASSAIGNE (1895-1973), VỊ TÔNG ĐỒ CỦA NHỮNG NGƯỜI BỊ BỆNH PHONG
Bên cạnh Làng Cùi Di-Linh, tỉnh Lâm Ðồng, có ngôi mộ của Ðức Giám Mục Marie Pièrre Jean Cassaigne (Đức Cha Gioan Sanh), mội nhà truyền giáo Pháp thuộc Hội Thừa Sai Paris (Missionnaire Étrangère de Paris). Ngài là vị sáng lập giáo xứ và làng cùi tại Di-Linh, đã sống và đã chết với đàn chiên đáng thương của ngài ở đấy.
Cha Cassaigne đã được thụ phong Linh Mục năm 1925 tại cơ sở trung ương của Hội Thừa Sai Paris trên (đường) Rue du Bac. Sau đó, nơi ngài nhận nhận nhiệm sở đầu tiên là thí điểm truyền giáo trong một vùng hẻo lánh thuộc quận Di-linh, vào năm 1927. Ngài đã yêu thương những người “Mọi cùi” (tên gọi những người Thượng, cách khinh miệt vào thời bấy giờ), đến độ đã sống giữa họ, tắm rửa, chăm sóc, và yêu thương cho đến khi họ chết. Cha Cassaigne đã kể một câu chuyện rằng có lần Ngài giúp những người cùi thức ăn gồm có gạo, muối, và thịt nai. Trong những người dân nhận quà, có một bà cùi hàng tuần đến lấy phần ăn, nhưng hôm đó không thấy đến. Cha Cassaigne đã đến lều tranh tìm bà thì thấy bà ta sắp chết với mủ nhớt nhầy nhụa, mùi hôi thối nồng nặc xông ra từ mảnh thân héo tàn đáng thương xót nàỵ Cha vội lo dạy bà những điều về Thiên Chúa và hỏi bà ta có muốn Cha rửa sạch những tội lỗi để bà được lên Trời sau khi chết không? Người cùi đáng thương đồng ý được rửa tội và nói với Cha Cassaigne rằng:
“Cau dờng! Ăn rơp kăh dơ mê dỡ ăn gũh rê hơ trồ.” (Ông lớn ơi! Tôi sẽ nhớ đến ông khi tôi ở trên Trời).
Cái chết tội nghiệp nhưng thánh thiện của bà Thượng cùi đã khích động thật sâu xa trong tâm hồn của vị Linh Mục Thừa Saị trẻ tuổi. Câu nói “Tôi sẽ nhớ Cha khi được ở trên Trời” là viên đá đầu tiên được đặt xuống để khởi đầu công cuộc thành lập làng cùi tại Di Linh.
Khoảng gần cuối năm 1927, cha Cassaigne đã bị cơn sốt rét hành hạ lần đầu tiên. Ngài đã nằm li bì, không thể ăn uống trong thời gian một tuần. Sức lực của ngài cạn kiệt và thân hình xanh xao, ngài đã phải trở về Pháp mấy tháng để trị bệnh. Căn bệnh này vẫn tiếp tục lặp đi lặp lại, hành hạ ngài, trong suốt thời gian 14 năm ngài làm mục vụ tại Di Linh.
Cha Cassaigne đã nhanh chóng trở nên thân mật với những người dân tộc bản địa và học được tiếng nói của họ. Vào thời gian này, tiếng dân tộc (Thượng) chỉ là ngôn ngữ nói, chưa có chữ viết. Ngài thường xuyên trò chuyện và lần mò, sáng tạo các phiên âm tiếng dân tộc. Sau đó không lâu, cha đã có thể trò chuyện với họ cách thông thạo, để rồi dịch được một số kinh, bài hát, ra tiếng Thượng. Phương pháp học tiếng K’Ho (đọc là Kờ Ho) của ngài là nghe họ nói vào ban ngày và đến đêm thì ghi lại, biên soạn, để rồi ngài đã có thể cho ra đời một cuốn từ điển bỏ túi với 3 thứ tiếng: ’Ho-Pháp-Việt. Cuốn này được xuất bản lần đầu vào năm 1929. Sau đó, ngài tiếp tục viết và xuất bản cuốn “Phong tục tập quán người dân tộc Kơ Ho” vào tháng 12 năm 1937, cuối cùng là cuốn “Giáo lý cho người Kơ Ho” vào năm 1938.
Năm 1936, họ đạo Công Hinh được thành lập và nhà nguyện của họ đạo được khánh thành vào ngày 15 tháng 8 cùng năm. Đầu năm 1939, cha Cassaigne cùng giáo dân K’Brai đi thăm các làng Kulbum, B’Sout, K’Rot và cho hình thành giáo điểm Kala (nay là giáo xứ Kala, Giáo phận Đà Lạt).
Sau 14 năm coi sóc đồng bào Thượng trong vùng Di Linh, cha Cassaigne đã để lại cho giáo hội Công Giáo địa phương một giáo xứ với 795 giáo dân gồm người Pháp, Kinh, và 218 người Thượng. Tại Công Hinh, có 350 giáo dân, kể cả 78 người Thượng tại làng cùi. Ngoài ra còn có 133 tân tòng đang chuẩn bị lãnh nhận Bí tích Rửa Tội.
Trở lại với khoảng thời gian cuối Thu năm 1928, trong chuyến đi thăm một làng Thượng ở xa, đang băng qua rừng vắng thì bỗng có tiếng chân nhiều người dồn dập từ trong vùng tối âm u, nhiều giọng la ú ớ kêu Ngài dừng lại. Những bóng dáng quái dị xuất hiện như một đoàn ma đói. Thân hình xác xơ, kẻ mất tay, người sứt mũi, miệng chảy nước lòng thòng và tất cả hầu như què quặt. Họ, mặc dù có người khập khiểng, có người vừa bò vừa lết, và đói, vẫn cố đuổi theo cha để rồi bao vây lấy ngài và tất cả cùng gào lên thảm thiết:
“Ơ cau dơng! Ơ cau dơng! Dăn nđàc sơngit bol hi!” (Ới ông lớn! Ới ông lớn! Xin thương xót chúng tôi!)
Rồi tất cả sụp lạy Ngài và khóc rống. Cha Cassaingne vừa sợ hãi, vừa mủi lòng. Thì ra đây là những người cùi bị xóm làng kinh tởm đuổi đi, họ tụ tập thành nhóm ngoài rừng xa, sống lây lất qua ngày để chờ chết. Có lẽ họ đã nghe lời đồn đãi về ông lớn làm thuốc và hay thương giúp người cùi này. Họ chờ Cha trên khúc đường vắng để nhờ Cha giúp đỡ. Vài ngày sau, đó, việc lập làng cùi Di-linh được xúc tiến ngay. Đến tháng tư năm 1929, làng cùi Di-linh chính thức được công nhận. Tổng số bệnh nhân vào ngày khánh thành là 21 người, đến cuối năm 1929, con số đã tăng lên 33.
Cũng trong năm 1929, cha Cassaigne thành lập trường học đầu tiên tại Di Linh, lúc đầu trường chỉ có 2 lớp với 32 học sinh (toàn là người dân tộc Kơ Ho) đặt ở trong khuôn viên nhà thờ.
Ngoài các việc mục vụ thường xuyên, cha Cassaigne còn đóng vai trò hộ sinh, giúp một người mẹ phong cùi sinh con. Khi biết sự việc, Đức Cha Drapier đã trách ngài rằng quá liều lĩnh. Cha giải thích rằng: “Ở đây cả làng không có một y tá hay cô đỡ. Con là người duy nhất có 10 ngón tay lành lặn. Nếu để một người cùi chạm đến thai nhi thì nguy hiểm lắm. Bà sản phụ lại là một bệnh nhân lở loét, không ai dám đến gần”. Công việc ngày càng nhiều, làng phong thêm con cháu, cha đã kêu gọi các nữ tu thuộc dòng Nữ Tử Bác Ái Vinh Sơn giúp cha chia sẻ số phận của người phong và được 3 nữ tu đến hỗ trợ ngài chăm sóc các bệnh nhân.
Tháng 6 năm 1936, cha Cassaigne cử hành nghi thức Rửa Tội cho 46 dự tòng, trong đó có 26 người mắc bệnh phong. Ngài đã mời các nữ tu từ Đà Lạt xuống Di-linh đỡ đầu cho các tân tòng bị bệnh phong. Những Nữ Tử Bác Ái, sau lại thêm các kinh sĩ thánh Âu Tinh (Augustine) dòng Đức Bà vui mừng và hết lòng cộng tác với ngài về tinh thần và vật chất, như mở trường và dạy giáo lý… Nam Phương Hoàng hậu cũng gửi một số tiền để tổ chức lễ Rửa tội cho các tân tòng, bà đã nhiệt tình ủng hộ công việc truyền giáo của ngài hàng năm.
Tại Di-linh, cha Cassaigne từng có dịp trả lời câu chất vấn của một Thanh Tra cao cấp của bộ Thanh Tra Giáo Dục Đông Dương khi ông này đi nhầm đến làng phong, trong lúc ông ấy đang đi săn bắn. Cuộc đối thoại diễn ra khi cha Cassaigne đang băng bó cho một người rụng hết các ngón tay, ngón chân:
Viên Thanh Tra: “Ông có quyền nào mà dám mở nhà điều trị căn bệnh ghê sợ này? Ông xuất thân từ đại học Y Khoa nào?
Cha Cassaigne: “Tôi chỉ là một linh mục nhưng thấy bệnh nhân quá khổ, sống chui rúc trong rừng sâu rồi chết chẳng ai hay biết, nên tôi thấy có bổn phận thương và chăm sóc họ. Nơi đây tôi vừa là giám đốc vừa là y tá, y công, kể cả hộ sinh nữa! Hiện nay có 129 bệnh nhân, tôi phải ngửa tay xin các nhà từ tâm trợ lực mới kéo dài được cuộc sống của họ đến hôm nay.”
Khoảng một tháng sau cuộc trò chuyện này, cha Cassaigne đã nhận được một thùng thuốc do chính Tổng Thanh Tra Bộ Giáo Dục Đông Dương gửi tặng.
Câu chuyện về lòng bác ái bao la của cha Cassaigne đã lan truyền về đến tận quê hương (Pháp) của ngài. Năm 1939, Hàn Lâm Viện Y Khoa Paris đã trao tặng ngài một Huy Chương Bạc cao quý, dù cha chưa bao giờ đặt chân vào một trường y nào.
Trở thành một Giám Mục
Ngày 20 tháng 2 năm 1941, Toà Thánh bổ nhiệm cha Jean Cassaigne Sanh làm giám mục, với tư cách Đại Diện Tông Toà Hạt Đại Diện Tông Tòa Sài Gòn. Sau những ngày do dự, mặc dầu tâm hồn nặng trĩu, ngài đã phải đánh điện qua Rôma: FIAT (Xin vâng!)
Tuy nhiên, thánh giá nặng nề nhất đã đến với Đức Cha Cassaigne vào ngày 23 tháng 6 năm 1943, mới hai năm trong chức Giám Mục. Hôm ấy, cha Bùi Văn Nho đến chúc mừng lễ bổn mạng của Đức Cha (Lễ sinh nhật của thánh Gioan Baotixita, vào hôm sau 24/6), trong khi Đức Cha vừa đọc phiếu kết quả xét nghiệm xác nhận mình bị nhiễm vi trùng Hansen (bệnh phong). Ngài cười và nói: ”Đây là quà lễ quan thầy của tôi.”
Cha Nho sững sờ thốt lên: “Ôi Đức Cha bị nhiễm phong rồi? Ngài lại cười và đáp: “Không phải bị mà là được vì sẽ được về Di-linh với đoàn con! Có đau mới hiểu người đau và biết thương họ nhiều hơn.”
Ngày 19 tháng 12 năm 1954, lễ kỷ niệm ngày thụ phong LM của ngài, trong khi dâng lễ tạ ơn, Đức Cha đã nhận thấy phía phía trên cổ tay một chút có một vết đỏ. Sau khi lễ xong, ngài lấy kim châm vào mà không cảm thấy đau. Đó là dấu hiệu của bệnh phong đã đến thời kỳ trở thành mụn nhọt và phát tán.
Sau đó, ngài đã gửi thư cho Đức Khâm Sứ Tòa Thánh ở Việt Nam và vị Tổng Quyền của Hội Thừa Sai Paris để xin từ chức, và trở về Di-linh. Đầu năm 1955, Tân Giám Mục Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền đã được Toà Thánh bổ nhiệm, để thay Đức Cha Cassaigne, làm Giám Mục Tông Toà Giáo Phận Sài Gòn. Còn Đức Cha Cassaigne thì trở lại Di-linh.
Trong khi làm Giám Mục Saigon, Đức Cha Cassaigne đã thuyết trình ở nhiều nơi về sự khủng khiếp của căn bệnh hiểm nghèo này. Ngài thường nói:
“Ở xứ Thượng cũng như hầu hết các xứ vùng nhiệt đới, nơi mà sự ăn ở sạch sẽ và phương pháp vệ sinh ít được lưu ý, thì con số người mắc bệnh cùi khá cao. Khi mà có thể còn làm việc được thì người mắc bệnh cùi vẫn còn được sống chung với gia đình. Nhưng đến khi thân tàn ma dại không làm gì được nữa, nhất là khi các vết ung thối bắt đầu phá miệng lở loét ra, mủ máu vấy đầy khiến những người chung quanh nhờm gớm kinh tởm không chịu được, thì dân làng đưa họ vào rừng, cất cho họ một túp lều tranh để người cùi ở lại đó một mình sống chết sao mặc kệ! Rồi yếu liệt cô đơn trong túp lều hiu quạnh, người cùi không còn sức làm gì nữa để kiếm ăn vì tay chân cụt mất rồi! Họ sẽ chết dần chết mòn một cách thảm khốc, sẽ gục ngã ở một xó kẹt nào đó rồi chết đi vì đói lạnh, mà chẵng có ai hay biết…”
Mỗi lần thuyết trình đến đây, Đức Cha Cassaigne không sao cầm được nước mắt, phần thì thấy thương những người xấu số, phần khác, cõ lẽ ngài cũng cảm thấy lo âu như như đã thấy trước định mệnh sẽ đến với chính mình.
Trở về Di-linh và qua đời
Sau khi trở lại Di-linh, Đức Cha Cassaigne tiếp tục phục vụ bệnh nhân mặc dù bản thân còn mang thêm bệnh sốt rét rừng, lao xương, lao phổi… Nhiều người muốn đưa ngài về Pháp để chữa trị nhưng đều bị ngài từ chối: “Tôi là người Pháp nhưng trái tim tôi là của người Việt Nam. Tôi muốn sống trong đau khổ và chết nơi đây. Việt Nam là quê hương của tôi”. Bệnh cùi của ngài không phát lộ nhiều qua da, nhưng đã tấn công vào hệ thần kinh. Kể từ năm 1970, các bệnh của Đức Cha trở nặng: Sốt rét, cột sống bị gặm nhấm, và đau dạ dày, khiến ngài không thể tiếp nhận cả rượu lễ. Cuối tháng 10 năm 1971, xương đùi của ngài bị gãy và từ thời điểm này, ngài không thể rời giường bệnh.
Đầu năm 1973, Đức Cha lâm vào tình trạng lúc tỉnh lúc mê. Cho đến ngày 31 tháng 10 năm 1973 thì vị thánh nhân với quả tim yêu thương không giới hạn, đã hoàn tất cuộc sống gian lao và nhiều đau đớn trên cõi đời này, thở hơi cuối cùng, để trở về với Đấng Tạo Dựng. Trong tang lễ của ngài, có khoảng trên 3000 người đến viếng. Năm đêm liền, có rất đông người K’Ho, cả bệnh nhân và người khoẻ mạnh, từ các miền rừng núi, buôn làng, cùng về. Họ mặc tang phục trắng, canh thức suốt đêm bên cạnh linh cữu của ngài.
Ước nguyện cá nhân
Đức Giám Mục Jean Cassaigne có ba ước nguyện trong đời:
- Tôi ao ước được bền đỗ,
- Tôi ao ước được đau khổ (vì Chúa và vì anh em)
- Tôi ao ước được an nghỉ giữa các con cái người Thượng của tôi.
(Je ne demande que trois choses: tenir, souffrir, et mourir ici, au milieu de mes Montagnards – I only ask for three things: to hold on, to suffer, and to die here, in the midst of my Montagnards.)
LM. Phaolô Nguyễn Văn Tùng (tổng hợp và dịch qua Anh ngữ


Sao, sao ốc ka nu
Lên 30 sướng tê cả ngài
PVD thị giá cao hơn PET 1.000
Sai sai ta
PVD thị giá cao hơn PET 1.000
Sai sai ta
nói thị giá vì nó lại liên quan PE EPS ROA ROE…
Là các chỉ số PET tốt hơn PVD mà
nên mình nói thị giá chứ không nói vốn hóa
Sao sao
Cái gì
Cái gì nào
Ốc Ka nu
Sao, cái gì, nữa hả

