Giai Đoạn 1: Tạo Đáy
Giai đoạn 1 bắt đầu khi kết thúc một xu hướng giảm khi giá cổ phiếu vào giai đoạn xây nền. Về mặt kỹ thuật, chúng ta có thể thấy đường trung bình di động (Moving Average, hoặc viết tắt là MA) 30 tuần hầu như đi ngang và không có xu hướng rõ ràng.
Vùng đáy có thể đơn giản hoặc phức tạp, nhưng nói chung phải mang tính rũ bỏ đối với NĐT cũ (đa phần là NĐT cá nhân), thay vào đó là NĐT tổ chức bắt đầu mua vào tại giai đoạn này. Thời gian xây nền trong giai đoạn 1 có thế giao động từ vài tuần (ngắn và rất hiếm), cho đến tháng hoặc năm. Tại vùng này, tâm lý sợ hãi của NĐT cá nhân chuyển biến thành tâm lý kỳ vọng của NĐT tổ chức, và cuối cùng để chuyển biến thành tâm lý tham lam của NĐT nhỏ lẻ. Việc mua sớm trong quá trinh xây nền không phải tối ưu vì việc “lấy hàng” của NĐT tổ chức từ tay NĐT cá nhân (“crowd replacement dynamics”) dẫn đến việc rũ bỏ sẽ trở nên phức tạp hơn, và tạo nhiều đáy mới trước khi vùng hỗ trợ (“support”) được thiết lập.
Nếu việc rũ bỏ trong nền giá hiệu quả, thanh khoản trong khi hình thành nền giá thường thấp, và sẽ cạn kiệt,
Việc tích lũy thường tăng tốc ở gần cuối của mẫu hình, kích hoạt thanh khoản bùng nổ cao hơn thanh khoản bình quân, minh chứng cho sự quyết tâm với việc mua vào (“buying conviction”).
Thường trong giai đoạn 1, nội tại doanh nghiệp sẽ có những chuyển biến tích cực nhưng chưa đủ lớn để thu hút đám đông và truyền thông. Các NĐT tổ chức bắt đầu đặt kỳ vọng vào yếu tố cơ bản của doanh nghiệp trong thời gian sắp tới nên tiến hành mua vào.
Giai Đoạn 2: Tăng Giá
Xu hướng tăng báo hiệu cho sự bắt đầu của giai đoạn 2, một thời điểm mà người tham gia có thể mua mạnh, đặc biệt là ở đầu giai đoạn 2.
Dấu hiệu kỹ thuật để nhận biết sự bắt đầu của giai đoạn hai là một phiên phá vỡ (“breakout”) với thanh khoản cao trên MA 30 tuần. Đường MA 30 tuần lúc đó sẽ dốc lên.
Một xu hướng tăng mới thường thu hút một nhóm nhỏ các NĐT quyết tâm trong giai đoạn bắt đầu và phần lớn đám đông NĐT nhỏ lẻ (hay còn gọi là tay nhỏ hay tay yếu) và đại chúng khi càng về cuối. Chúng ta có thể thấy như trong biểu đồ là càng về cuối giai đoạn 2 và tiệm cận đỉnh, thanh khoản nở ra. Do đó, khi mới bắt đầu giai đoạn 2 hành động giá thường ổn định hơn với các đỉnh sau và đáy sau cao hơn các đỉnh trước và đáy trước. Trong khi đó, càng gần cuối giai đoạn tăng giá thì hành động giá thường phức tạp hơn, xuất hiện nhiều bẫy và các cú phá vỡ thất bại. Điều này xảy ra vì tạo lập thị trường và NĐT tổ chức (họ là những người có sức ảnh hưởng mạnh nhất đến thị trường) chú ý đến sự phát triển của giai đoạn tăng giá và sử dụng các kỹ năng đặc biệt của họ để rũ bỏ (“shake out”) tay yếu và những người nhập cuộc trễ.
Trong giai đoạn 2, yếu tố cơ bản của doanh nghiệp thường tiến triển tích cực qua các quý và/hoặc các năm tài chính liên tiếp. Tăng trưởng EPS tiếp tục mở rộng. Tuy nhiên, thường chỉ khi vào gần cuối giai đoạn 2, thông tin tích cực về doanh nghiệp mới bắt đầu xuất hiện trên truyền thông và đám đông mới để ý đến.
Giai Đoạn 3: Phân Phối
Sự chuyển biến từ giai đoạn 2 sang giai đoạn 3 không xảy ra trong một thanh giá vì pha đầu tiên của một mẫu hình tạo đỉnh bao gồm pha cuối của một xu hướng tăng, với việc nỗ lực tăng giá đánh dấu mức kháng cự đầu tiên trong một biên độ đang hình thành. Thêm vào đó, sự tích lũy trong xu hướng tăng có thể đạt mức giá cao, nên mẫu hình tạo đỉnh không thể nào được xác nhận cho đến khi bắt đầu vào giai đoạn 4 (giảm giá).
Các mẫu hình tạo đỉnh rõ ràng có thể cho thấy sự phân phối vì tay lớn (NĐT tổ chức, tạo lập và các bên có sức ảnh hưởng lớn đến thị trường) chốt lời và bước qua một bên.
Một vùng đỉnh đủ độ trưởng thành thường mất tính đàn hồi khi thanh giá không thể bật lên và chạm nửa trên của biên độ giao động. Hành động giá yếu ớt này phản ánh sự hời hợt của các thiểu số NĐT còn sót lại.
Dấu hiệu kỹ thuật của giai đoạn 3 là MA 30 bắt đầu đi ngang với thanh khoản cao, độ biến động của các thanh giá cao bất thường nhưng giá lại không tăng dần.
Trong giai đoạn 3, yếu tố cở bản của doanh nghiệp thường đang ở trạng thái tốt nhất có thể và chất xúc tác để tiếp tục tốt hơn lại không còn. Lúc này, truyền thông thường hầu như đưa tin rất tốt về doanh nghiệp và đại chúng bắt đầu tham gia mạnh mẽ. Tuy nhiên, nếu nhìn kỹ về yếu tố cơ bản, tăng trưởng EPS thường đã chậm lại đáng kể trong hai quý liên tiếp. Việc này cho thấy yếu tố tăng trưởng của doanh nghiệp đang giảm tốc hoặc chấm dứt.
Giai Đoạn 4: Giảm Giá
Khi giá cổ phiếu phá xuống là sự bắt đầu của giai đoạn 4 xu hướng giảm, khi bên bán áp kiểm soát hành động giá. Sự bi quan và tiêu cực là tâm lý điển hình và chủ đạo của giai đoạn này. Pha giảm thường bắt đầu với độ biến động cao nhưng kết thúc với biến động thấp, cho thấy sự bất cần đã lấn án, đè giá cổ phiếu xuống vùng thấp của chu kỳ.
Vị thế bán không khi được thực hiện sớm trong xu hướng giảm thường mang độ rủi ro cao hơn nhưng cũng mang khả năng lợi nhuận cao hơn so với khi thực hiện trễ hơn trong xu hướng giảm. Tâm lý lạc quan vẫn tồn tại và có thể áp đảo khi mới bắt đầu giai đoạn 4, kích thích những NĐT bắt đáy mở vị thế trong khi các thuật toán bắt đầu mở lệnh mua vì các NĐT tay ngang chưa có kỹ năng bán khống bị thu hút bởi cú giảm giá. Tuy nhiên, độ biến động cao kích thích cổ phiếu rớt giá nhanh hơn tăng giá, cho phép các vị thế bán khống được định thời điểm hoàn hảo chốt lời.
Đoạn cuối của xu hướng giảm có thể trở nên khốc liệt vì nó sẽ là cuộc chiến sinh tồn khi các NĐT bắt đầu tìm kiếm các cơ hội khác. Tuy nhiên, các vị thế bán khống trong thời điểm này đem lại độ tin cậy cao vì lúc này giá cổ phiếu đang bắt đầu rơi vì chính quán tính giảm giá của nó, và khi vào vùng này thì không còn nhiều NĐT tay ngang sống sót.
Mở tài khoản chứng khoán:
Margin 3:7 lãi 9.9%/năm, phí 0.15%
Bảo lãnh thêm sức mua đầu ngày
Có hàng T0
Tel: 0912107487