Hội môi giới bất động sản Việt Nam cho biết, trong bối cảnh nhu cầu nhà ở không ngừng gia tăng thì hàng chục nghìn căn hộ phục vụ tái định cư đã hoàn thiện lại đang bị bỏ hoang, tiêu tốn hàng trăm tỷ đồng ngân sách Nhà nước mỗi năm.
Theo Hội môi giới bất động sản Việt Nam (VARS), tại nhiều thành phố lớn như Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng, hiện tượng căn hộ tái định cư (TĐC) bị bỏ hoang không còn hiếm gặp. Nhiều khu TĐC có tỷ lệ lấp đầy rất thấp, thậm chí có những tòa nhà không có người ở. Các tòa nhà xây dựng với quy mô lớn, đầu tư hàng nghìn tỷ đồng nhưng lại bị bỏ không hoặc sử dụng không hiệu quả khiến toàn bộ hạ tầng và các hạng mục bị xuống cấp nghiêm trọng.
Riêng ở TP. Hà Nội và TP.HCM, có ít nhất khoảng 18.000 căn hộ TĐC bị bỏ hoang, không người đến ở, tiêu tốn hàng trăm tỷ đồng để bảo trì, bảo dưỡng mỗi năm. Tại Hà Nội, báo cáo của UBND TP. Hà Nội cho biết, hiện trên địa bàn có 174 khu nhà TĐC đang được sử dụng với tổng số hơn 14.200 căn hộ và khoảng 4.000 căn chung cư bỏ hoang. Nhiều dự án TĐC có người dân về ở, có diện tích kinh doanh dịch vụ cũng vẫn bị bỏ trống nhiều năm, không có đơn vị nào thuê, sử dụng thương mại.
Còn tại TP.HCM, thống kê của Sở Xây dựng TP.HCM cho thấy, hiện có hơn 14.000 căn hộ TĐC bỏ trống, tập trung nhiều nhất tại khu TĐC Bình Khánh (quận 2 cũ nay là TP. Thủ Đức) với hơn 12.000 căn hộ và tại khu khu TĐC Vĩnh Lộc B (huyện Bình Chánh) với hơn 2.000 căn hộ.
Hơn 8 năm, khu tái định cư nằm trong Khu đô thị mới Thủ Thiêm vẫn trống hàng nghìn căn hộ. Ảnh: VP
Dữ liệu nghiên cứu của VARS chỉ ra, kể từ năm 2018 đến nay, nguồn cung nhà ở, đặc biệt là phân khúc căn hộ đang sụt giảm nghiêm trọng. Số lượng dự án bất động sản được phê duyệt mới ngày càng khan hiếm trong khi các dự án đang triển khai chật vật bởi các vướng mắc liên quan đến pháp lý và nguồn vốn. Trung bình mỗi năm, ước tính mỗi đô thị đặc biệt thiếu hụt ít nhất 50.000 căn hộ.
Do đó, việc hàng chục nghìn căn hộ "để không" trong khi nhiều người dân không có nhà ở là hiện tượng bất hợp lý. VARS cho rằng, tình trạng này do nhiều khu TĐC được xây dựng ở những khu vực xa trung tâm, thiếu tiện ích và dịch vụ công cộng nên làm giảm sức hấp dẫn và gây khó khăn cho người dân trong việc di chuyển và sinh hoạt. Một số dự án TĐC gặp vấn đề về chất lượng xây dựng như vật liệu kém chất lượng, thiết kế không hợp lý và thi công không đạt chuẩn. Những vấn đề này không chỉ ảnh hưởng đến an toàn của cư dân mà còn làm giảm giá trị của các căn hộ, khiến người dân không muốn chuyển đến.
Bên cạnh đó, nhiều khu TĐC thường thiếu hạ tầng cơ bản như trường học, bệnh viện, chợ, và hệ thống giao thông, làm giảm chất lượng sống và sự tiện lợi cho cư dân.
Ngoài ra, mức đền bù chưa thỏa đáng và chính sách TĐC theo Luật Đất đai hiện hành còn chưa hợp lý khiến nhiều người dân không muốn chuyển đến nơi ở mới hoặc không đủ khả năng để sống tại các khu TĐC vì toàn bộ số tiền được đền bù không đủ để mua suất TĐC được giao.
"Đánh thức" hàng chục nghìn căn TĐC thế nào?
VARS đánh giá, tình trạng hàng chục nghìn căn hộ TĐC bỏ hoang là một vấn đề cần được quan tâm và giải quyết kịp thời. Việc triển khai các giải pháp phù hợp để "đánh thức" loại hình này không chỉ giúp sử dụng hiệu quả tài nguyên đất đai mà còn góp phần cải thiện nguồn cung, nâng cao chất lượng sống của người dân và phát triển đô thị bền vững.
Để giải quyết tình trạng TĐC bỏ hoang, VARS nhận định cần thực hiện đồng bộ một loạt các biện pháp cụ thể.
Thứ nhất, cơ quan quản lý Nhà nước cần có kế hoạch quy hoạch rõ ràng và hợp lý hơn khi chọn vị trí xây dựng các khu TĐC. Các khu vực này cần được kết nối tốt với trung tâm thành phố và có đầy đủ hạ tầng, dịch vụ công cộng như trường học, bệnh viện, chợ, và các tiện ích khác.
Dự án nhà tái định cư N01 - D17 nằm trên lô "đất vàng" tại quận Cầu Giấy, TP. Hà Nội "đắp chiếu" suốt nhiều năm. Ảnh: Trọng Hiếu
Thứ hai, cần có cơ quan giám sát chặt chẽ quá trình xây dựng, các dự án TĐC cần tuân thủ nghiêm ngặt các tiêu chuẩn xây dựng để đảm bảo chất lượng và an toàn.
Thứ ba, thúc đẩy thời gian có hiệu lực của Luật Đất đai mới với các quy định về bồi thường, hỗ trợ, TĐC đảm bảo quyền lợi của người bị thu hồi đất. Đồng thời, nghiên cứu xây dựng cơ chế đảm bảo công bằng giữa các đối tượng thuộc trường hợp Nhà nước thu đất. Ngoài ra, cần có các chương trình hỗ trợ tài chính, tư vấn và đào tạo nghề để giúp người dân thích nghi với cuộc sống mới.
Thứ tư, khuyến khích người dân được tham gia vào quá trình quy hoạch và phát triển các dự án TĐC. Để đảm bảo các dự án TĐC được phát triển phù hợp với nhu cầu thực tế và đạt được sự đồng thuận trong cộng đồng. Đối với các dự án căn hộ TĐC đang triển khai, Nhà nước cần nhanh chóng rà soát, qua đó đề xuất các giải pháp tháo gỡ khó khăn, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án chậm triển khai. Đối với các dự án đã hoàn thiện và chưa được sử dụng có kế hoạch đấu giá để thu hồi vốn, lãnh đạo các thành phố cần nghiên cứu mức giá bán phù hợp hơn.
Chưa hết, bên cạnh quỹ nhà bán đấu giá, VARS nhận thấy, Nhà nước có thể nghiên cứu ghép nhà TĐC và nhà ở xã hội cùng một phân khúc. Các dự án TĐC sẽ được tiếp cận nguồn vốn và lãi suất của gói tín dụng 120.000 nghìn tỷ đồng để hoàn thiện các hạng mục về hạ tầng, kỹ thuật, hạ tầng xã hội như các dự án nhà ở khác để thu hút người dân đến sinh sống. Các chủ đầu tư sẽ có một tỷ lệ % quỹ nhà dự án để kinh doanh thương mại nhằm thu hồi vốn đầu tư.
Cho thuê cũng là một trong những giải pháp hiệu quả. Nhưng, Nhà nước cần có các quy định rõ ràng và đồng bộ về việc cho thuê nhà TĐC, đảm bảo quyền lợi của cả người cho thuê và người thuê. Các quy định này bao gồm mức giá thuê, thời hạn thuê, và các điều kiện thuê cụ thể.
Đồng thời, cần cải thiện công tác quản lý và bảo trì tại các khu TĐC, đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng và các tiện ích công cộng tại các khu TĐC để khuyến khích người dân chuyển đến sinh sống. Áp dụng các chính sách khuyến khích và hỗ trợ tài chính cho người dân khi cho thuê nhà TĐC, như miễn giảm thuế, hỗ trợ vay vốn với lãi suất ưu đãi, và các khoản trợ cấp khác.