Hệ sinh thái apatit và photpho vàng P4

Trữ lượng apatit toàn cầu khoảng 71 tỷ tấn, và Maroc, Trung Quốc và Ai Cập là ba nước đứng đầu. Maroc với trữ lượng tài nguyên 50 tỷ tấn tương ứng chiếm 70,4%, trung quốc có 3.3 tỉ tấn nắm 4,5% và còn Ai cập có 2.8 tỉ tấn tương đương 3,9%.

Về sản lượng, khoảng 220 triệu tấn apatit được khai thác trên toàn cầu vào năm 2020. Trung Quốc, Maroc, mĩ và Nga đều là những nhà cung cấp chính. Trong số đó, trung quốc là nước sản xuất apatit lớn nhất thế giới, đóng góp khoảng 40,2% sản lượng apatit toàn cầu (sản lượng apatit của Trung Quốc năm 2020 là 88 triệu tấn) nên vấn đề khai thác dư thừa là nổi bật. Từ quan điểm thương mại toàn cầu, trong số khoảng 220 triệu tấn apatit được sản xuất trên toàn thế giới vào năm 2020, chỉ có khoảng 30 triệu tấn (13,6%) được giao dịch quốc tế. Theo dữ liệu của CRU năm 2020, Morocco OCP là nhà xuất khẩu apatit lớn nhất, với thị phần 31,9% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn cầu, tiếp theo là Jordan 17%, Peru 12,6%, Ai Cập 10% và Nga 8.7% và thị phần của Trung Quốc trên thị trường xuất khẩu apatit quốc tế năm 2020 là 1,1%.

Theo số liệu do Viện Quốc tế Hoàng gia Anh công bố, kể từ năm 2000, các nhà xuất khẩu apatit trên thế giới chủ yếu tập trung ở Maroc, Trung Quốc, Nga, Mĩ và các khu vực khác có trữ lượng apatit phong phú. Nhưng có sự giảm về sản xuất apatit ở Trung Quốc và Mĩ, Năm 2019, khối lượng xuất khẩu của Trung Quốc và Mĩ giảm tương ứng, và Mĩ đã chuyển từ một nhà xuất khẩu apatit sang một nhà nhập khẩu. Hiện tại, trung tâm xuất khẩu apatit của thế giới tập trung ở khu vực châu Phi do Maroc thống trị, trong số đó, doanh nghiệp nhà nước Morocco Phosphate Company (OCP) của Maroc độc quyền về tất cả các khía cạnh của chuỗi công nghiệp phốt pho trong nước và đã trở thành nhà sản xuất apatit lớn nhất thế giới. Nó cũng là một yếu tố quan trọng quyết định đến giá apatit thế giới.

Từ năm 2000 đến năm 2016, sản lượng apatit của trung quốc đã tăng trưởng nhanh chóng, đạt đỉnh cao nhất là 144,4 triệu tấn vào năm 2016 với tốc độ CAGR là 13,38%. Năm 2016, trong “Quy hoạch tài nguyên khoáng sản quốc gia (2016 - 2020)” , trung quốc coi apatit nằm trong danh mục 24 loại khoáng sản chiến lược và hạn chế dần xuất khẩu. Còn trước đó lượng apatit xuất khẩu của trung quốc đạt tối đa 3,234 triệu tấn vào năm 2003. Tuy nhiên, xuất khẩu đang giảm dần. Năm 2017, trung quốc cung cấp 53,2% nhu cầu toàn thế giới. Thế nhưng cũng từ năm 2016, sản lượng apatit lần đầu tiên đạt mức tăng trưởng bằng 0 và giảm xuống 70 triệu tấn vào năm 2022, với tốc độ CAGR giai đoạn 2016-2020 là âm 11,41% ( mỗi năm giảm 11.41%).

Theo số liệu trong “Phân tích thị trường và phát triển nguồn tài nguyên phốt pho toàn cầu”, tỷ lệ thu hồi chế biến khoáng sản toàn cầu năm 2019 là 63,01%, tỷ lệ thu hồi chế biến khoáng sản của trung quốc đạt 89,97%, cao hơn nhiều so với tỷ lệ thu hồi của thế giới. Mặt khác, hạ nguồn chính của apatit là phân bón hợp chất photphat, đến năm 2020, lượng tiêu thụ phân bón phức hợp photphat vẫn còn chiếm 71% tổng lượng tiêu thụ. Nhưng việc loại bỏ khả năng sản xuất phân lân dư thừa, cũng như việc tiêu thụ phân bón hỗn hợp phốt pho, việc tiêu thụ phân bón hợp chất phốt pho đã giảm tổng lượng tiêu thụ chỉ còn 66% vào năm 2022.

Quặng apatit là một trong những mỏ khai thác phi kim loại lớn nhất trên thế giới, được sử dụng chủ yếu để sản xuất phân phốt phát. Một số quặng phốt phát được sử dụng để sản xuất phốt pho tinh khiết (phốt pho vàng, phốt pho đỏ) và nguyên liệu hóa học, và một lượng nhỏ được sử dụng làm thức ăn chăn nuôi. Trong cơ cấu tiêu thụ hạ nguồn chủ yếu, phân lân chiếm 66%, chất tẩy rửa chiếm 16%, phụ gia thức ăn chăn nuôi chiếm 6% và phụ gia thực phẩm chiếm 3%, 6% được sử dụng để sản xuất phốt pho vàng, còn được sử dụng để sản xuất các sản phẩm phốt phát khác nhau. Nguyên liệu để sản xuất photpho vàng là apatit, than cốc và silica, chúng tương đương với apatit. Sản xuất axit photphoric chủ yếu bao gồm phương pháp axit photphoric ướt và phương pháp axit photphoric nhiệt. Phương pháp axit photphoric ướt chủ yếu sử dụng axit sunfuric phản ứng với đá photphat để lọc, tách và tinh chế axit photphoric. Trong khi phương pháp axit photphoric nhiệt sử dụng lò điện để khử đá photphat, trong đó nguyên tố photpho sau khi thăng hoa, khử bụi, làm lạnh và hóa lỏng, sau đó tinh chế để thu được axit photphoric.

Tính đến ngày 13 tháng 6 năm 2022, giá CFR của apatit ở Ấn Độ là 1904,61 nhân dân tệ / tấn và giá FOB Jordan là 1239,51 nhân dân tệ / tấn. còn giá apatit của Maroc hiện tại là 255 USD/ tấn,CIF khoảng 2000 nhân dân tệ / tấn.Giá đá phốt phát trong nước của trung quốc ngày 15/9 chỉ là 1064 nhân dân tệ / tấn.

Tại trung quốc, từ cấp quốc gia đến tỉnh và thành phố đã liên tiếp ban hành các chính sách điều tiết ngành sản xuất apatit, nâng cao ngưỡng đầu vào và đẩy nhanh việc loại bỏ cơ sở phân lân quy mô vừa và nhỏ. Nhu cầu phân tăng trưởng ổn định: Về lâu dài, trong bối cảnh lạm phát toàn cầu, giá cây trồng cao đã thúc đẩy nông dân sẵn sàng trồng trọt. USGA dự đoán rằng diện tích trồng đậu tương, ngô và gạo hàng năm sẽ tăng thêm +1,8 Lần lượt là%, + 1,8% và + 2,6% theo năm IFA CAGR của nhu cầu phân lân dự kiến ​​sẽ duy trì ở mức 1,8% đến năm 2026.Tuy nhiên, vừa qua giá phân lân tăng vọt đã đánh tụt nhu cầu phân lân đến nỗi người ta dự tính rằng nhu cầu 2026 mới tăng lên ngang mức 2021.

3 Likes

Phốt pho vàng P4 (còn được gọi là phốt pho trắng) là chất rắn không màu, màu trắng đến vàng như sáp, có mùi giống mùi tỏi. Nó được sử dụng rộng rãi để sản xuất axit photphoric cấp thực phẩm, photpho triclorua, photpho pentasunfua, photpho đỏ, natri tripolyphotphat, natri hexametaphotphat, canxi hydro photphat, axit photphoric cấp công nghiệp & điện tử. Trung Quốc là nhà cung cấp lớn nhất trên thế giới. Giá phốt pho vàng bị ảnh hưởng đáng kể bởi nguồn cung từ Trung Quốc.

Trên thị trường sản xuất P4, trung quốc có sản lượng 1.475 triệu tấn, chiếm 78.4%. Mĩ sản xuất 200 ngàn tấn chiếm 10.6%. Kazachstan 120 ngàn tấn chiếm 6.4%. Việt nam 87 ngàn tấn chiếm 4.6%. Từ 2014 công suất sản xuất phốt pho vàng toàn cầu giảm xuống với tốc độ CAGR -1,2% còn 1,87 triệu tấn vào năm 2019. Và công suất sẽ giảm xuống 1,72 triệu tấn vào năm 2024 do chính sách bảo vệ môi trường nghiêm ngặt của Trung Quốc. 6 nhà sản xuất Phốt pho vàng hàng đầu toàn cầu là Monsanto, Giang Tô Trừng Tinh, Tập đoàn Vân Thiên Hoa, Hồ Bắc Hưng Phát Hoá Công , Kazphosphate LLC và Quí Châu Tân Tân, và thị phần năng lực sản xuất của họ đạt 48,5% tổng công suất toàn cầu vào năm 2018.

Chúng ta cần biết hệ sinh thái apatit để biết đầu ra của nó là gì, từ đó có thể ước tính được lợi nhuận của doanh nghiệp apatit mà tránh bị đổ bô lên đầu. Trong các sản phẩm của apatit thì hệ sinh thái photpho vàng P4 đang là tiêu điểm của media. Apatit có đầu ra là 35% photphor trichlorid, 55% P4, 10% photphor pentasunfit và photpho đỏ . Từ photpho vàng P4 người ta chế ra axit photphoric chiếm 45%, sodium tripolyphosphat 25%, sodium hexametaphosphat 10%, canxium hydrogen phosphat 10%, axit photphoric công nghiệp và điện tử 10%.

Đáng chú ý là P4 cấp độ điện tử có giá bán cao gấp 10 lần P4 công nghiệp. Chúng ta hay xuất khẩu P4 sang Nhật bản, sau khi tinh chế xong người Nhật lại xuất khẩu sang Hàn quốc để chế thành pin cho xe điện. Trong đợt sốt P4 lên 60.000 CNY/tấn, người Nhật đã rất vất vả mới thuyết phục được đầu ra chấp nhận giá cao mới. Hậu quả là giá pin LFP tăng cao đến nỗi các doanh nghiệp xe điện EV than vãn bao nhiêu lợi nhuận bị bên cung cấp pin ngốn hết. Đến lượt nhà làm pin LFP cũng la làng rằng chính khối P4 mới là kẻ hưởng lợi chính.

Chúng ta sẽ thường xuyên cập nhật giá thành các sản phẩm trong hệ sinh thái apatit và P4

1 Likes

Sau trận động đất, toàn bộ các mỏ apatit ở Khai Dương Quí Châu và tỉnh Tứ Xuyên bị đóng cửa. Điều đó khiến 35% sản lượng apatit và P4 trung quốc dừng sản xuất. Theo lịch trình kiểm tra an toàn mỏ thì từ tuần sau vùng Khai Dương Quí Châu ở xa tâm chấn động đất lại tiếp tục đi vào sản xuất. Do đó mức hao hụt sản lượng P4 toàn trung quốc giảm chỉ còn 29%.

Dự kiến công tác kiểm tra an toàn hầm mỏ ở Tứ Xuyên còn kéo dài tới giữa, thậm chí cuối tháng 10. Do đó các doanh nghiệp có mỏ apatit ko cung cấp báo giá. Bọn họ chỉ bán cho khách ruột hoặc để tự sử dụng. Với nguồn cung căng thẳng, giá P4 còn đứng ở mức cao. Ngày 16/9 đã tăng lên 36.250 CNY/tấn. Dự kiến sớm nhất phải sau 10/10 chúng ta mới thấy P4 quay đầu giảm xuống.

1 Likes

Photpho vàng và axit photphoric đều là nguyên liệu quan trọng để sản xuất pin lithium sắt photphat. Hiện tại, pin năng lượng mới chủ yếu là pin lithium. Vật liệu catốt là vật liệu cốt lõi của pin lithium và hiệu suất của nó ảnh hưởng trực tiếp đến mật độ năng lượng, độ an toàn, tuổi thọ chu kỳ và phạm vi ứng dụng của pin lithium và tỷ lệ giá vật liệu cathode trong chi phí vật liệu của pin lithium là 30% đến 40%. Nó trực tiếp quyết định chi phí tổng thể của pin. Theo các hệ thống vật liệu khác nhau, vật liệu catốt có thể được chia thành lithium coban, lithium manganate, lithium iron phosphate và vật liệu bậc ba MNC mangan-nikel-coban. Trong đó lithium iron phosphate LFP và MNC là hai vật liệu được sử dụng rộng rãi nhất trong pin năng lượng xe mới. Lithium sắt phosphate là một loại vật liệu catốt với nguồn lithium, nguồn sắt, nguồn phốt pho và nguồn carbon làm nguyên liệu chính. Còn vật liệu bậc ba MNC là một loại vật liệu catốt tổng hợp bậc ba được làm bằng muối niken, muối coban, muối mangan hoặc nguyên liệu chính là muối niken, muối coban và muối nhôm. Không chỉ vậy, pin lithium MNC vốn luôn dẫn đầu về sản lượng và công suất lắp đặt cũng nhanh chóng bị pin lithium iron phosphate bắt kịp trong nửa đầu năm 2021. Dữ liệu cho thấy về việc lắp đặt pin điện ở trung quốc vào tháng 9, pin MNC được tải 6,14GWh. Pin lithium sắt phốt phát được tải với tổng cộng 9,54Wh. Pin lithium sắt phốt phát đi trước pin MNC về mặt khả năng tải trong ba tháng liên tiếp.

Còn trên phạm vị toàn cầu, năm 2020 pin MNC chiếm 80% nhờ ưu thế về cự li di chuyển cho mỗi lần nạp. Đến năm 2021, Tesla chuyển từ chỉ dùng pin MNC sang sử dụng song song cả hai loại. Đó là vì pin LFP tuy bị hạn chế về khoảng cách đi được, thế nhưng nó rẻ hơn và đặc biệt là thời gian triển khai nhà máy sản xuất chỉ hơn 12 tháng so với hơn 3 năm nếu là pin MNC. Vì thế thị phần của pin LFP năm 2021 đã tăng lên 40% trên toàn cầu.

Về sản lượng, trong tháng 9/2021, sản lượng ắc quy MNC là 9,63 GWH, chiếm 41,56% tổng sản lượng; sản lượng pin lithium sắt phosphate là 13,51 GWH, chiếm 58,31% tổng sản lượng. Từ dây chuyền công nghiệp của pin lithium iron phosphate, có thể thấy rằng sự gia tăng nhu cầu đối với lithium iron phosphate sẽ kéo theo sự gia tăng nhu cầu đối với monoammonium phosphate ( phân lân). Theo phân tích của người sáng lập Securities, 1GWh lithium iron phosphate cần 1780 tấn monoammonium phosphate, và dự kiến ​​công suất lắp đặt của pin lithium iron phosphate trong các lĩnh vực khác nhau sẽ đạt 824GWH vào năm 2025 và nhu cầu điều chỉnh sẽ là khoảng 900GWh.

Glyphosate là một dòng sản phẩm có đóng góp ổn định nhất trong hệ sinh thái apatit. Từ năm 2021 trở về trước, thuốc diệt cỏ có biên lợi nhuận cao nhất. Từ tháng 6 /2024 dòng này cũng sẽ tái lập vị trí của mình. Nó chỉ nhường vị thế quán quân trong họ apatit cho dòng photphor vàng P4 gần 3 năm 2022-2024, lí do chúng ta sẽ trình bày thêm sau ở mục nói về P4.

Năm 2019, năng lực sản xuất glyphosate toàn cầu đạt khoảng 1,1 triệu tấn, với tổng số khoảng 10 doanh nghiệp sản xuất và mức độ tập trung cao trong ngành. Trong đó, Monsanto của mĩcó 380.000 tấn, còn lại gần 70% năng lực sản xuất chủ yếu tập trung ở Trung Quốc.

Bởi vì thuốc diệt cỏ glyphosate chủ yếu được sử dụng trong cây trồng biến đổi gen, sự gia tăng diện tích của cây trồng biến đổi gen GM là nguyên nhân trực tiếp thúc đẩy tăng nhu cầu glyphosate. Các quốc gia trồng cây GM quan trọng nhất trên thế giới là Hoa Kỳ, Brazil và Argentina, chiếm gần 80% diện tích trồng cây GM. Nhất là ngô và đậu tương GM có tính năng kháng glyphosate, cho nên phun thuốc diệt cỏ chỉ cỏ chết chứ ngô và đậu tương GM vẫn phát triển tốt. Do đó, thị trường nhu cầu đối với glyphosate cũng chủ yếu ở ngoài trung quốc. Năm 2019, sản lượng tiêu thụ nội địa của Trung Quốc đạt khoảng 550.000 tấn, còn lại hơn 85% được sử dụng để xuất khẩu.

Đầu vào của glyphosate là axit clohydric và glysine. Sản phẩm phụ metyl clorua của quá trình sản xuất glyphosate cũng có thể được sử dụng để sản xuất silicon hữu cơ, giảm rủi ro môi trường của glyphosate và cải thiện lợi ích kinh tế toàn diện.

Từ số liệu hoạt động năm 2019, doanh thu từ hoạt động glyphosate và các sản phẩm phụ, phốt pho vàng và các sản phẩm phốt pho mịn chiếm doanh thu lớn nhất, chiếm 76% tổng doanh thu. Tuy nhiên, xét từ góc độ cơ cấu lợi nhuận, chiếm lợi nhuận lớn nhất lần lượt là glyphosate và các sản phẩm phụ với 27.49%, phốt pho vàng 25.85%, phốt pho mịn và sản phẩm silicone chiếm 16,48%.

Trước tiên, chúng ta hãy xem xét hoạt động kinh doanh glyphosate, hoạt động mang lại lợi nhuận lớn nhất. Năm 2014, công suất sản xuất glyphosate của trung quốc đạt khoảng 1 triệu tấn, tỷ lệ hoạt động duy trì ở mức khoảng 50% trong một thời gian dài. Nhưng trong những năm gần đây, chính sách bảo vệ môi trường ngày càng khắt khe hơn, công suất sản xuất glyphosate mới chậm được phát hành, một số công suất sản xuất nhỏ lạc hậu dần rút khỏi thị trường nên công suất sản xuất giảm xuống còn khoảng 700.000 tấn. Đồng thời, mức độ tập trung của ngành đã tăng lên nhanh chóng.

Trong tương lai, với sự gia tăng diện tích trồng cây biến đổi gen, nhu cầu về glyphosate có thể duy trì tốc độ tăng trưởng hàng năm từ 3% -5%. Khi tận dụng triệt để chloromethane, một sản phẩm phụ của glyphosate chồng lên sự thịnh vượng cao của các sản phẩm photpho-silicon ( silicon hữu cơ dùng cho thẩm mĩ) biên lợi nhuận bùng nổ tới 592%. Hi vọng hệ sinh thái apatit của chúng ta vươn tới dòng sản phẩm này.

2 Likes

Hôm nay 19/9, giá P4 là 36.625 CNY/tấn

Cho 3 chữ cái

2 Likes

Nội dung rất chất lượng. Thank bác !

Axit photphoric chủ yếu được sử dụng để sản xuất phân lân, chiếm 31% tổng lượng axit photphoric tiêu thụ, có nhiều loại photphat, có thể được sử dụng trong các lĩnh vực khác nhau như thực phẩm và công nghiệp. Những năm gần đây, tiêu thụ axit photphoric ở trung quốc cơ bản vẫn ổn định, dao động khoảng 1,7 triệu tấn. Tuy nhiên, sau khi công suất lắp đặt của pin lithium iron phosphate tăng đáng kể trong năm 2021, nó được kỳ vọng sẽ cung cấp một cực tăng trưởng mới cho việc sử dụng axit photphoric trong công nghiệp.

Các quy trình sản xuất axit photphoric chủ yếu ở trung quốc có thể chia thành hai loại: phương pháp nhiệt và phương pháp ướt, trong đó axit photphoric nhiệt cần photpho vàng, sẽ tạo ra nhiều tiêu hao năng lượng trong công đoạn đốt nóng của lò nung photpho vàng và khí thải của photpho vàng khó xử lý hơn. Do đó, axit photphoric nhiệt có độ ô nhiễm cao và tổng tiêu thụ năng lượng cao hơn, nhưng sản phẩm có độ tinh khiết cao hơn và có thể được sử dụng trực tiếp như axit photphoric cấp công nghiệp.

Trong điều kiện phương pháp ướt, axit photphoric ướt tiêu thụ ít năng lượng hơn, nhưng sẽ tạo ra photphogypsum (so với axit sunfuric). Dùng axit clohydric sẽ không tạo ra một lượng lớn tích tụ photphogypsum, nhưng chi phí cao hơn, và có nhiều tạp chất hơn. Vì vậy nó cần được tinh chế thêm để được sử dụng như axit photphoric cấp công nghiệp. Và rào cản công nghệ tinh chế rất cao, hiện chỉ có một số công ty làm chủ được nó.

Axit photphoric quy trình ướt ở trung quốc bắt đầu muộn. Hiện nay, sản lượng axit photphoric quy trình ướt toàn cầu chiếm khoảng 85-90% tổng sản lượng, trong khi trung quốc chỉ chiếm khoảng 67%. Trong những năm gần đây, dưới những hạn chế về tiêu thụ năng lượng và bảo vệ môi trường, năng lực sản xuất axit photphoric nhiệt của trung quốc đã dần bị loại bỏ, và hiện nay không còn năng lực sản xuất theo quy hoạch mới.

Do đó, với sự tiến bộ và phổ biến của các ràng buộc kiểm soát kép tiêu thụ năng lượng và công nghệ tinh chế, tỷ lệ axit photphoric quá trình ướt dự kiến ​​sẽ tăng hơn nữa trong tương lai.Về công nghệ tinh chế axit photphoric ướt, trung quốc đã triển khai nghiên cứu công nghệ tinh chế axit photphoric ướt từ những năm 1980. Công nghệ tinh chế được sử dụng chủ yếu là chiết xuất bằng dung môi và chỉ có một số doanh nghiệp ứng dụng công nghệ này vào công nghiệp.

So sánh quy trình hai phương pháp nhiệt ướt có thể thấy, giá apatit và giá điện sẽ ảnh hưởng lớn hơn đến giá thành sản xuất. Với giả định rằng giá nguyên liệu khác không đổi và chỉ có hai phương pháp nhiệt ướt là được sử dụng khi giá apatit hoặc giá điện thay đổi để so sánh chi phí.Dựa trên giả định về giá tiêu thụ nguyên liệu, có thể ước tính chi phí biến đổi của phốt pho vàng là khoảng 18.847 nhân dân tệ / tấn, chi phí biến đổi của axit photphoric nhiệt là 8.536 nhân dân tệ / tấn, chi phí biến đổi của axit photphoric quá trình ướt là 3.447 nhân dân tệ / tấn.

Giả sử với môi trường thiết bị ở trên, chi phí sản xuất khả dụng là khoảng: phốt pho vàng 19139 nhân dân tệ / tấn, axit photphoric nhiệt 8614 nhân dân tệ / tấn, axit photphoric quá trình ướt là 3.509 nhân dân tệ / tấn và axit photphoric tinh chế quá trình nhiệt là 3.849 nhân dân tệ / tấn.

1.Khi giả sử các chi phí khác không đổi, chỉ có giá apatit thay đổi thì chi phí tinh chế axit photphoric bằng phương pháp ướt bị ảnh hưởng nhiều hơn so với axit photphoric nhiệt. Cứ mỗi tấn giá apatit tăng 100 nhân dân tệ, chi phí sản xuất mỗi tấn axit photphoric tinh chế theo quy trình ướt sẽ tăng khoảng 600 nhân dân tệ, và chi phí axit photphoric nhiệt sẽ tăng khoảng 420 nhân dân tệ.

Nhưng chỉ khi giá đá photphat cao hơn khoảng 2100 nhân dân tệ / tấn, chi phí tinh chế axit photphoric ướt sẽ cao hơn chi phí axit photphoric nhiệt. Do đó, nếu giá đá photphat dưới 2000 nhân dân tệ / tấn thì tinh chế ướt sẽ rõ ràng hơn phương pháp nhiệt.

2.Khi các chi phí khác được giả định là không thay đổi và chỉ có giá điện thay đổi, thì chi phí của axit photphoric nhiệt bị ảnh hưởng nhiều hơn so với chi phí của axit photphoric ướt. Với mỗi đơn giá điện tăng 0,1 nhân dân tệ, chi phí sản xuất trên mỗi tấn axit photphoric nhiệt tăng khoảng 635 nhân dân tệ và quá trình tinh chế ướt bằng axit photphoric tăng khoảng 56 nhân dân tệ.

Do đó, trong điều kiện giá điện ngày càng tăng, lợi thế về chi phí của quá trình tinh chế ướt cho axit photphoric sẽ tăng lên đáng kể.Nhìn chung, dưới ba yếu tố hạn chế của axit photphoric công nghiệp trong ngành hóa chất photpho hiện tại ở trung quốc, bao gồm sự khan hiếm dần của tài nguyên apatit, kiểm soát tiêu thụ năng lượng và các hạn chế về bảo vệ môi trường, tinh chế axit photphoric ướt tiết kiệm chi phí và bền vững hơn hơn axit photphoric nhiệt là con đường phát triển chính của sản xuất axit photphoric công nghiệp trong tương lai.

Thế còn nguồn cung từ Moroco thì sao bác!

1 Likes

Giá trị gần đây

Chuỗi lịch sử dài hơn

Đo lường:USD mỗi tấn
Nguồn: Ngân hàng Thế giới

Giá apatit của Maroc quá cao , đạt mức 320 trump/tấn tức 2200 CNY/tấn vào tháng 8/2022. Trong khi đó giá apatit trung quốc ngày 19/9 chỉ 1068 CNY /tấn nên sức cạnh tranh lớn hơn nhiều. Vì thế chúng ta ít đề cập tới Maroc trong topic này

Thank bác.

Sao giá của Moroc cao thế bác! Mà theo em biết thì chi phí đầu vào như xăng, khí bên Moroco rẻ hơn.

1 Likes

cung cao nhưng ko có quota xuất khẩu apatit vì được coi là tài nguyên chiến lược nên apatit chỉ có thể luân chuyển nội bộ khiến giá có phần hạn chế

2 Likes

Ok ! Thank bác. Pic rất chất lượng. Chắc phải người làm trong ngành mới nắm được.

1 Likes

Ahihi, là công sức bé robot quét thông tin mang về. Còn em học ngành tài chính ngân hàng ạ.

Theo số liệu thống kê của Hải quan Trung Quốc, từ tháng 1 đến tháng 6 năm 2022, Trung Quốc đã xuất khẩu tổng cộng 9,428 triệu tấn phân bón các loại, giảm 41,9% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, lũy kế lượng xuất khẩu urê giảm 70,1% so với cùng kỳ năm ngoái, amoni sunfat tăng 4,4% so với cùng kỳ năm ngoái, diamoni photphat giảm 59,6% so với cùng kỳ năm ngoái và monoamoni photphat giảm 53,8%.

Ở góc độ hàng tiêu dùng, sản phẩm tiêu thụ phân lân của trung quốc chủ yếu là monoamoni photphat ( phân lân) và diamoni photphat ( DAP), chiếm hơn 85% thị trường và là sản phẩm phân lân chủ đạo nhất ở giai đoạn này. Tiếp theo là phân hỗn hợp NPK amoni phosphat với phân lân nồng độ thấp và nhiều canxi. Mức độ nông nghiệp: Monoamoni photphat thu được từ phản ứng của axit photphoric trong quá trình ướt và amoniac lỏng vẫn sẽ là mô hình được tối ưu hóa, và sự thịnh vượng cao dự kiến ​​sẽ tiếp tục. Tất cả đều được sử dụng để làm phân bón hỗn hợp phốt pho. Nhìn cụ thể cơ cấu thị trường monoamoni photphat và diammonium photphat, thị trường monoamoni photphat của trung quốc tương đối manh mún, cạnh tranh gay gắt hơn. Hiện tại, nồng độ sản xuất monoamoni photphat CR3 và CR10 đã tăng lần lượt từ 16,42% và 36,57% năm 2016 lên 30,18% và 57,64% vào năm 2021.Mức độ tập trung thị trường của các nhà sản xuất DAP cũng cao hơn. Theo thống kê, tổng năng lực sản xuất của thị trường diammonium phosphate của trung quốc vào năm 2021 là 24,29 triệu tấn, trong đó có 6 doanh nghiệp với công suất sản xuất trên 1 triệu tấn.

Từ quan điểm của các lĩnh vực ứng dụng hạ lưu, các sản phẩm phốt pho sử dụng độ tinh khiết axit photphoric khác nhau tùy theo các yêu cầu tinh chế khác nhau. Trong chuỗi công nghiệp phân bón nông nghiệp, yêu cầu về độ tinh khiết photpho cần thiết là tương đối thấp. Và các loại phân bón thông thường có thể được điều chế trực tiếp bằng axit photphoric quá trình ướt. Phân monoamoni, diamoni photphat, canxi magie photphat, superphotphat, v.v. được sử dụng trong công nghiệp sản xuất phân lân, điều chế các loại phân bón mới như phân bón tan trong nước có yêu cầu cao với hạn chế tạp chất và điều chế photphat cấp thực phẩm. Hiện nay, hạ nguồn công nghiệp hóa phốt pho của nước ta chủ yếu sử dụng phân phốt pho, lượng tiêu thụ chiếm hơn 70%.Từ góc độ mô hình cạnh tranh của thị trường apatit, năng lực sản xuất apatit trung quốc hiện tại là khoảng 120 triệu tấn, và CR7 chỉ là 38,5%.

Đánh giá từ doanh số thực tế của phân bón cày xuân và phân bón hè năm 2022, lượng mua phân bón hóa học ở một số vùng sản xuất ngũ cốc lớn không những không tăng mà còn giảm xuống ở mức độ nhất định. Nguyên nhân chính là do người tiêu dùng cuối cùng không mua phân bón định giá cao. Phản ứng dây chuyền do nhu cầu èo uột là áp lực tồn kho của các nhà máy sản xuất phân phức hợp tăng lên, giảm tải khởi động. Việc truyền tải về thượng nguồn cũng dẫn đến sự sụt giảm hoạt động khởi động của các nhà sản xuất phân lân amoni. “Mặt chi phí tích cực mà không có cầu hỗ trợ là bong bóng lớn nhất. Kể từ tháng 7/2022, nhiều nhà sản xuất đã chơi trò ‘chạy nhanh’, và một số thương nhân có nguồn hàng giá rẻ là những người đầu tiên bán hàng với giá thấp. Hàng hóa, ai “thoát thành công” từ đỉnh ở điểm cao là an toàn. Ngược lại, những người mua ở điểm cao hoặc chạy chậm là những người cuối cùng phải trả giá cho rủi ro.

Bị ảnh hưởng bởi sự thiếu hụt của thị trường quốc tế và nhu cầu, giá lưu huỳnh vẫn chưa bước ra khỏi biên độ giảm. Theo thống kê của Hiệp hội Lưu thông Vật tư Nông nghiệp Trung Quốc, tính đến cuối tuần trước, báo giá tham chiếu chủ đạo của lưu huỳnh tại cảng sông Dương Tử đã giảm xuống còn 900 nhân dân tệ / tấn, với mức giảm mỗi tuần hơn 150 nhân dân tệ / tấn; giá trung bình của lưu huỳnh rắn và lưu huỳnh lỏng ở trung quốc giảm xuống còn 911 nhân dân tệ / tấn và 892 nhân dân tệ / tấn, mức giảm hàng tuần lần lượt là 109 nhân dân tệ / tấn và 200 nhân dân tệ / tấn.

Việc lưu huỳnh giảm từ mức cao hơn 4.000 nhân dân tệ / tấn xuống còn 900 nhân dân tệ / tấn đã tác động trực tiếp đến việc giá phân lân tiếp tục giảm. Lấy diammonium làm ví dụ, cứ mỗi 100 nhân dân tệ / tấn giá lưu huỳnh giảm, giá lý thuyết của diammonium DAP sẽ giảm 50 nhân dân tệ / tấn. Chỉ riêng chi phí hoàn chỉnh lý thuyết của diammonium đã giảm gần 1600 nhân dân tệ / tấn so với mức cao nhất trong năm. Đó là chưa kể đến tác động chi phí của việc giảm giá amoniac tổng hợp. Xét từ giá cả quốc tế và xu hướng thị trường điện tử hiện nay, mặc dù sự sụt giảm của giá lưu huỳnh đã chậm lại, nhưng nó vẫn chưa đến mức ổn định hoặc thậm chí tăng trở lại. Do đó, ở góc độ giá thành, phân lân khó có thể đảo ngược tình hình thị trường tiêu cực trong ngắn hạn, giá có thể tiếp tục giảm.

Ở mức đo nông nghiệp , tính bền vững của sự bùng nổ monoamoni photphat chủ yếu phụ thuộc vào hai điểm: thứ nhất, chi tiêu vốn cho phía năng lực sản xuất và thắt chặt các chính sách bảo vệ môi trường; thứ hai, giai đoạn chu kỳ giá nông sản từ phía cầu .

Với cấp công nghiệp: mức độ sẵn sàng thay đổi sản xuất thấp và gia tăng nguồn cung nhỏMonoamoni photphat cấp công nghiệp, còn được gọi là photphat amoni dihydrogen cấp công nghiệp, có thể được sử dụng làm phân bón hợp chất phốt pho nồng độ cao, chất chống cháy, catốt lithium sắt phốt phát và các kịch bản khác, và có nhiều ứng dụng. Monoamonium công nghiệp có thể được sản xuất từ ​​axit photphoric nhiệt, axit photphoric ướt và axit photphoric tinh chế ướt. Trong số đó, axit photphoric nhiệt và axit photphoric tinh chế ướt cho các sản phẩm MAP có chất lượng tốt, nhưng quá trình axit photphoric nhiệt có mức tiêu thụ năng lượng cao và Ô nhiễm lớn, không có lợi cho phát triển bền vững. Kế hoạch phát triển: So với tinh chế axit photphoric quy trình ướt, chi phí sản xuất trực tiếp MAP từ axit photphoric quy trình ướt thấp hơn, nhưng do hàm lượng tạp chất cao của photphoric quy trình ướt Làm thế nào để nâng cao độ tinh khiết của sản phẩm của quá trình axit photphoric trong quy trình ướt trong tương lai là một vấn đề ngành mang tính đột phá quan trọng trong quá trình phát triển.

1 Likes

Uhm. Như vậy ít nhất mình cũng hiểu vì sao giá P4 tăng. Thank bạn.

1 Likes

Bác ơi. Cho em hỏi muốn xem thông tin về thị trường P4 này ở TQ thì ngoài trang sunsirs ra thi xem ở đâu nữa được ạ? thank bác.

1 Likes

Hôm nay 20/9 giá P4 là 36.625 CNY/tấn. Có lẽ bác hơi nhầm đó. Theo kịch bản của bé robot nhà chúng ta thì từ tháng 6/2024 apatit nông nghiệp và apatit công nghiệp sẽ phải bù lỗ cho apatit điện tử. Nhóm hàng P4 sẽ bước vào giai đoạn lỗ sặc tiết. Chi tiết này sẽ được phân tích ở các phần sau

Bác vào xem kịch bản hàng hoá của quĩ tiền tệ quốc tế IMF, ngân hàng thế giới WB

1 Likes

Ngày 7/9, Bộ Thương mại nước ta đã chấm dứt hiệu lực của thuế tự vệ đối với các mặt hàng Diamonium Phosphate và Monoamonium Phosphate. Vậy là các mã làm phân lân, DAP,MAP …. chuẩn bị bước vào thời kì khó khăn đây