Em ngửi lâu sẽ quen
Ko có lại thèm 
Sao quen được anh, đi qua đấy phải chạy thật nhanh. Nhất là mùa hè thì mùi hôi xông lên thật kinh hoàng ạ. 
Nếu trong một hoàn cảnh khác
Em lại thấy nó ko kinh hoàng mà rất ngọt ngào 
Sông Tô Lịch ngày xưa Vua và đoàn tuỳ tùng bơi thuyền du ngoạn và xem xét trên sông. Ngày xưa sông Tô Lịch đẹp và thơ mộng lắm đấy anh. Nhiều sách tả về vẻ đẹp của sông Tô Lịch đó anh.
Tặng em này
Sông Tô năm bảy cây cầu
Chiều Quê bảng lảng về đâu… Hỡi mình
Sông Tô Lịch Vua đi thuyền Rồng trên sông là biết nó đẹp như thế nào rồi anh.
Thủ Đô của những dòng Sông Chết
Nhưng là hiện tại thôi
Tương lai
Thủ đô sẽ có nhiều dòng Sông đẹp
Nói làm rì nữa cho thêm đau lòng
Lắm người ơi…
Nước Sông Tô vừa trong vừa mát
Anh chèo thuyền ghé sát… thuyền em
Thuyền em cửa đóng buông rèm…
Anh dân sống ở đây chắc anh thuộc nhiều thơ vịnh về sông Tô Lịch ạ.
Sông Tô Lịch từng đẹp đẽ, tấp nập giữa thành Thăng Long

Bây giờ sông ô nhiễm, nhỏ hẹp quá, ít ai nhớ rằng Tô Lịch từng có một quá khứ huy hoàng, là con sông đẹp và thơ mộng bậc nhất chảy giữa kinh thành Thăng Long.
Hà Nội quán xá phố phường là tập tản văn của Uông Triều viết về những điều bình dị mà tinh tế của Hà Nội, từ những món ăn, quán hàng, con phố tới sinh hoạt văn hóa. Được sự đồng ý của Sống - đơn vị giữ bản quyền - Zing.vn trích đăng một phần nội dung sách.
Tô Lịch không phải con sông duy nhất bị lấp trên nước Việt. Có nhiều con sông bị lấp, thậm chí dấu vết vĩnh viễn không còn nhưng Tô Lịch thì khác, vẫn còn những quãng mà chủ yếu gợi da diết nỗi buồn.
Con sông đẹp và thơ mộng bậc nhất chảy giữa kinh thành
Bây giờ sông ô nhiễm, nhỏ hẹp quá, ít ai nhớ rằng Tô Lịch từng có một quá khứ huy hoàng, là con sông đẹp và thơ mộng bậc nhất chảy giữa kinh thành Thăng Long.
Tô Lịch là một nhánh của sông Hồng, thông thủy với Hồ Tây, mộng mơ và hữu ích. Từng có những câu ca viết về Tô Lịch:
“Sông Tô nước chảy quanh co
Cầu Đông sương sớm, Quán Giò trăng khuya…”
Hoặc:
“Biết nhà cô ở đâu đây
Hỡi trăng Tô Lịch hỡi mây Tây Hồ…”
Trong các tài liệu địa chí, lịch sử, đều viết rằng Tô Lịch là một tuyến đường sông quan trọng, có giá trị về mặt giao thông đường thủy và gần như là ranh giới tự nhiên của kinh thành Thăng Long với các vùng khác.
Sông Tô Lịch mang màu sắc truyền kỳ trong một câu chuyện từ lâu đời. Người ta kể rằng khi Cao Biền (821-887) sang đô hộ đất Việt, ông ta đã làm bùa trấn yểm khắp nơi để trừ long mạch hòng khiến cho nước Việt không thể ngẩng đầu lên được.
Một lần, khi đi thuyền trên dòng sông ôm lấy thành Đại La, Cao Biền đã gặp phải một ông già râu tóc bạc phơ ngạo nghễ tắm dưới sông mà chẳng hề quan tâm tới thuyền của quan đi qua. Biền thấy lạ, dừng lại hỏi ông già tên họ là gì, ông già nói: Ta họ Tô, tên Lịch. Biền lại hỏi, nhà ông ở đâu, ông già đáp rằng: Nhà ta ở sông này. Nói xong, ông già cười lớn và đập tay cho nước bắn mù mịt. Tiếng cười và cú đập nước ấy mang thông điệp rất rõ: Ông già không coi tên quan đô hộ ra gì, thậm chí còn có ý châm chọc, giễu cợt hắn. Cao Biền khi ấy đã phải kinh sợ khi gặp phải thần sông nước Việt.
Câu chuyện về vị thần sông Tô Lịch còn hàm ẩn thêm một ý nghĩa khác: Ngoại bang không thể áp đặt sức mạnh và quyền lực lên nước khác, những trừ yểm của kẻ xâm lược kia chẳng làm được gì. Nước Việt từ thời thượng cổ luôn có những bậc anh hùng, quân vương bảo vệ và giữ gìn nền độc lập của dân tộc.
Vào thời Nguyễn, Tô Lịch vẫn là một dòng sông quan trọng, dù theo tự nhiên, sông Hồng chuyển dòng sang phía tả ngạn, cửa sông Tô Lịch bị bồi tụ, nước sông Hồng không vào được và dần dần Tô Lịch mất đi vị thế của mình.
Năm 1889, người Pháp lấp một phần sông Tô Lịch để quy hoạch phố phường. Nếu Tú Xương thời đó mà sống ở Hà Nội, chắc hẳn ông sẽ có những bài thơ khắc khoải về con sông từng một thời thơ mộng, gần gũi với người dân đất kinh kỳ. Nhưng mà từ “Sông Lấp” của Tú Xương ở Nam Định cũng có thể suy ra được bối cảnh bi thiết của Tô Lịch bấy giờ.
Nhưng sông Tô bị lấp thì không thành ruộng đồng như quê của Tú Xương. Tô Lịch trở thành phố phường sầm uất, và có lẽ trong những đêm thanh vắng của ngày ấy, tiếng ếch vọng lên từ những những đoạn sông sót lại cũng đủ làm thao thức lòng người.
Cái thời đó, khi mà cửa sông Tô Lịch, là khu vực phố Chợ Gạo giáp với phố Trần Nhật Duật bây giờ vẫn còn trên bến, dưới thuyền, thì hàng hóa từ các vùng xuôi ngược đổ về đã góp phần làm sầm uất những con phố trong nội thành.
Nhìn trên bản đồ và với những dấu tích để lại thì thấy sông Tô Lịch chảy theo một đường quanh co khá đặc biệt. Từ cửa sông là phố Chợ Gạo thông ra sông Hồng, Tô Lịch chảy qua các phố Nguyễn Siêu, Ngõ Gạch, rồi vào Hàng Cá, quặt lên Hàng Lược, khi hết Hàng Lược lại vòng theo hướng Phan Đình Phùng ra Thụy Khê rồi rẽ xuống đoạn sông Tô Lịch hiện thời, từ phố Nguyễn Đình Hoàn giáp với đường Hoàng Quốc Việt.
Khát khao hồi sinh
Dấu vết của sông Tô Lịch vẫn còn, phố Hàng Lược tên cũ là phố Sông Tô Lịch vì gần như cả con phố nằm trên dòng sông xưa. Nhưng có lẽ dễ nhận thấy nhất là đoạn phố Ngõ Gạch, phố cong cong mềm mại mà chỉ dáng vẻ của một con sông mới có.
Ở cửa sông, phố Chợ Gạo, con phố ngắn nhưng có điểm đặc biệt là có một dãy nhà giữa lòng phố, thoạt đầu cứ nghĩ hai phố nhưng kì thực chỉ một. Phố rộng vì bến sông xưa cần một không gian lớn để làm kho bãi. Thời Pháp, chỗ này được gọi là bãi Chợ Gạo vì gạo được tích trữ, buôn bán ở đây.
Nhưng sông Tô không chỉ có quá khứ u buồn của thời cuộc và thiên nhiên, con sông cũng có những dấu ấn lịch sử đáng tự hào. Năm 1426, đoạn sông chỗ Cầu Mọc, gần Ngã Tư Sở chính là nơi nghĩa quân Lam Sơn đã giáng cho quân Minh những đòn khốn đốn. Và gần hơn, năm 1873 và 1882, ở khu vực Cầu Giấy, quân Pháp đã nhận những đòn chí mạng khi ra đánh chiếm Bắc kỳ. Trận thứ nhất, đại úy Francis Garnier bị giết, trận thứ hai đại tá Henri Rivière tử trận.
Từ khi một phần sông Tô bị lấp và có thể trước đó nữa, khi sông Hồng thay đổi dòng chảy thì sông Tô cạn dần, dân cư đông lên và các nguồn nước thải đổ trực tiếp ra sông, con sông bắt đầu “ khúc buồn” của mình.
Con người đã cố gắng cứu vớt lấy dòng sông. Bờ kè được xây dựng, việc nạo vét thường xuyên hơn và cũng có lúc tưởng rằng sông Tô đã được sống lại. Người ta đã trồng rất nhiều phượng vỹ, bằng lăng bên bờ Tô Lịch để làm dịu bớt sự bức bối của dòng sông. Trận lụt lịch sử năm 2016 ở Hà Nội, mưa nhiều ngày, nước lớn, sông Tô phần nào giảm bớt ô nhiễm và thậm chí người ta đã nhìn thấy những chú cá bơi lượn thanh bình.
Khi nào sông Tô sẽ được hồi sinh? Những người yêu Hà Nội luôn có một nỗi khắc khoải, chờ mong con sông của lịch sử, của truyền thuyết sẽ trở lại thành dải lụa mộng mơ giữa thành phố nghìn năm tuổi.
Sông Tô Lịch xưa thơ mộng
đẹp đẽ
Năm kia e có đọc bài này; khi xem về nhà họ Tô! 
Tô Lịch được cho là dòng sông bí ẩn nhất Việt Nam với truyền thuyết về việc bị trấn yểm. Ai yểm sông Tô Lịch theo truyền thuyết này?
Người ta kể rằng khi Cao Biền (821-887) sang đô hộ đất Việt, ông ta đã làm bùa trấn yểm khắp nơi để trừ long mạch hòng khiến cho nước Việt không thể ngẩng đầu lên được. Viên quan từng giữ chức “An Nam đô hộ” này vốn xuất thân là một viên võ tướng khét tiếng, cầm quân sang đánh Giao Chỉ và ở lại làm quan luôn.
Thế nhưng khi Cao Biền đi thuyền dạo trên dòng sông ôm lấy thành Đại La, Cao Biền đã gặp một ông già râu tóc bạc phơ ngạo nghễ tắm trên sông mà chẳng hề quan tâm tới thuyền của quan đô hộ đi qua. Biền thấy vậy dừng lại hỏi ông già tên họ gì, ông già nói: “Ta họ Tô, tên Lịch”. Biền lại hỏi, nhà ông ở đâu, ông già đáp rằng: “Nhà ta ở sông này”. Nói xong, ông già cười lớn và đập mạnh tay cho nước bắn mù mịt. Tiếng cười và cú đập nước ấy rất mạnh mẽ, ông già không coi tên quan đô hộ ra gì, thậm chí còn có ý châm chọc, giễu cợt hắn. Tô Biền cũng phải kinh sợ khi gặp phải thần sông nước Việt.
Tô Lịch là vị thần sông, đương nhiên thế và trong câu chuyện này còn hàm ẩn thêm một ý nghĩa khác: Kẻ bên ngoài không thể áp đặt sức mạnh và quyền lực lên nước khác, những trừ yểm của kẻ cao ngạo kia chẳng làm được gì, nước Việt từ thời thượng cổ vẫn luôn có những bậc anh hùng, quân vương đứng lên xây dựng và giữ gìn nền độc lập của dân tộc.
Vào thời Nguyễn, Tô Lịch vẫn còn là một dòng sông quan trọng, dù theo biến đổi tự nhiên, sông Hồng dần chuyển dòng sang phía tả ngạn, cửa sông Tô Lịch bị bồi tụ dần, nước sông Hồng không vào được và dần dần Tô Lịch mất đi vị thế con đường thủy của mình.
Năm 1889 người Pháp lấp một phần sông Tô Lịch để quy hoạch lại phố phường. Nếu Tú Xương thời đó mà sống ở Hà Nội, chắc hẳn ông sẽ có những bài thơ khắc khoải về con sông từng một thời thơ mộng, gần gũi với người dân đất kinh kỳ này. Nhưng mà từ “sông Lấp” của Tú Xương ở Nam Định cũng có thể suy ra được bối cảnh u sầu của Tô Lịch bấy giờ. Văn thân Hà Nội cũng mở một cuộc thi thơ hoài nhớ về sông Tô nhưng không có tiếng vang lắm, còn đây là bài thơ lừng danh của Tú Xương về con sông bị lấp.
Cảm ơn chủ topic. Loạt bài hấp dẫn!
Bây giờ dòng sông thối này cũng chứa nhiều giai thoại tâm linh
Nó ám quẻ những NLĐ đương thời
Hôm nào làm 1 series về: “ Long Mạch nước Nam- những điều chưa hé lộ” ace thấy hay k??? @luotcungcamap
HHT rất vui khi các anh vào pic em chia sẻ. Em cảm ơn các anh rất nhiều ạ. Chúc các anh và nhà mình happy ạ. 
PHỐ THIỀN QUANG, THÔN THUYỀN QUANG VÀ CHÙA THIỀN QUANG
Phố Thiền Quang xưa kia vốn là lòng hồ Liên Thủy ở phía Đông thôn Cung Tiên. Xưa hơn nữa, vào thời vua Lý Thái Tổ rời Hoa Lư ra lập kinh đô Thăng Long thì còn là lòng con sông Kim Ngưu tách từ sông Tô ở phía Tây Nam thành Đại La uốn lượn tạo thành hào thiên nhiên bảo vệ phía Nam thành khiến hầu hết các cuộc tấn công của đối phương đều không chọn lối này. Chỉ về sau, sông cạn dần để lại vết tích là những hồ nước lớn mà điển hình là Đại Hồ, dân gian về sau đặt tên Bảy Mẫu, dù mặt nước hiện nay còn tới khoảng 30 ha trong tổng số hơn 50 ha công viên. Vào thời Lê Sơ thế kỷ 15, hồ Bảy Mẫu vẫn thông với sông Kim Ngưu qua cống Lâm Khang.
Đầu thế kỉ 20, hồ Liên Thủy bị lấp dần để mở phố sá mới, khoảng 1925 mới hình thành phố, nhưng lại được đặt tên Pháp là Crévost, sau năm 1945 đặt tên Trần Quý Cáp, thời tạm chiếm đổi lại là Thuyền Quang (xem bản đồ 1950), ngày 28 tháng 02 năm 1951, thị trưởng Thẩm Hoàng Tín đổi là Thiền Quang, từ đó, phố mang tên này cho đến nay.
Phố Thiền Quang hiện tại dài 172 mét, phía Đông từ phố Trần Bình Trọng đến phố Yết Kiêu ở phía Tây, thuộc phường Nguyễn Du, quận Hai Bà Trưng.
Phố Thiền Quang có đặc điểm:
- Không có số 1 và 3
- Số 5 là nhà công vụ của ĐCSVN, trước kia là nơi an cư của gia đình PCT nước Nguyễn Lương Bằng, nay gia đình một đồng chí lãnh tụ đương thời ngụ.
- Số 7 trước kia vốn là trụ sở của Đại đội hình cảnh Bắc bộ vang danh, nay là Phòng Cảnh sát hình sự - Công an Hà Nội. Chỉ nghe tiếng hô: “Sự số 7 đây, ngồi im!”, là cánh giang hồ, tội phạm rúm ró.
- Số 11 là nhà riêng của một bác sĩ danh tiếng
- Số 4 trước đây là nơi gia đình của cố Bộ trưởng Bộ Công an Trần Quốc Hoàn từng cư ngụ, nay là trụ sở của Ban Bảo vệ chăm sóc sức khỏe cán bộ trung ương.
Nhưng tại sao phố Thiền Quang ở tít xa phía Tây Bắc thôn Thuyền Quang lại dính dáng tới, mà không có sự liên hệ với hồ Liên Thủy? Thực tế, tên Thuyền Quang hay Thiền Quang liên quan đến câu chuyện sau đây:
Đây là tên một thôn vốn ở giữa hệ thống hồ thông với hồ 7 mẫu, người dân ở đây vẫn gọi là Thuyền Quang 嬋光 cho đến nay với nghĩa “Ánh sáng Trăng lung linh, đẹp”, bởi 嬋 có thể phiên âm là “thuyền” hay “thiền” với nghĩa “duyên dáng, đẹp”. Bản thân người ở thôn Thuyền Quang cũng thường quan niệm thôn của họ như một con thuyền do xung quanh thôn là một hệ thống hồ liên thông với nhau và đều thông ra Hồ Lớn (Đại Hồ, tên dân gian là hồ Bảy Mẫu). Phía Bắc có hồ Liên Thủy, Liên Trì, phía Đông có hồ Pháp Hoa, Thái Giao, phía Nam có hồ Liên Mỹ, Đại Hồ và phía Tây có hồ Hữu Lễ (khu vực này nhiều “sen” nên nhiều địa danh lấy chữ “liên”).
Ở mỗi thôn, giống như mọi thôn làng ở nông thôn, đều có chùa, đình. Thôn Thuyền Quang cũng có chùa đình riêng và tên lấy theo tên thôn.
Năm 1831 khi chuyển đổi Hán hóa tất cả các địa danh thì vua Minh Mạng với sự ưu ái đạo Phật đã đặt thành 禪光 (chỉ đổi bộ “nữ” ở đầu chữ “Thiền” thành bộ “kỳ”) được dịch thành ánh sáng của sự suy nghĩ tĩnh lặng, ánh sáng của Thiền. Đồng thời có sự sáp nhập và phân chia nhiều thôn nên Quang Hoa nhập với Liên Thủy thành Liên Hoa, sau vì kỵ húy mẹ vua Thiệu Trị, vợ vua Minh Mạng nên năm 1841 đổi thành Liên Đường. Trong khu vực, chỉ có thôn Thiền Quang được giữ nguyên tên nên tên hồ cũng thành Thiền Quang (tôi chưa có trong tay tư liệu chính xác thôn Pháp Hoa bị nhập vào thôn Thiền Quang nên chưa khẳng định ở bài viết này). Tuy vậy, do người dân vẫn đọc là Thuyền Quang nên trong các bản đồ thời kỳ đầu Pháp đô hộ, hồ vẫn được ghi là Thuyền Quang. Chỉ về sau những năm 1910s, chính quyền mới đổi ghi là hồ Thiền Quang, vì vậy để tôn trọng ý vua, từ đây viết là Thiền Quang. Tuy vậy đình chùa các thôn cũ vẫn riêng nên tên riêng vẫn giữ.
Thế nhưng trong những quy hoạch cải tạo thành phố của chính quyền thực dân giai đoạn 1920-1930, các thôn khu vực này có kế hoạch phải giải tỏa để tạo thành một khu phố hiện đại với trung tâm các đại lộ nằm ở chính thôn Thiền Quang (xem bản đồ 1936). Từ trung tâm này, các đại lộ sẽ tỏa ra như những ánh sao giống hệt quy hoạch ở thủ đô Paris, Pháp.
Tuy vậy, do thiếu kinh phí và cuộc khủng hoảng kinh tế 1929, kế hoạch này phải dừng lại. Kết quả duy nhất là đại lộ Hoàng Cao Khải nối phố Lê Lợi (Gia Long kéo dài, sau 1945 là Bà Triệu) với Đường Cái Quan (nay là Lê Duẩn) và đoạn kè cuối phố Công Sứ (Résident) Miribel (nay là cuối phố Trần Nhân Tông, từ cổng công viên đến phố Lê Duẩn).
Thời tạm chiếm, quy hoạch tiếp tục được thực hiện. Kết quả là tới năm 1950, phố Trần Nhân Tông được hoàn thiện nhưng đồng thời hồ Thiền Quang trên đã bị chia cắt hoàn toàn với Thiền Quang dưới và với hệ thống hồ liên thông với Đại Hồ.
Điều đáng chú ý là các đình các thôn Thiền Quang, Pháp Hoa bị phá, dân chỉ kịp mang một số đồ thờ cúng, một số bia … của chùa hai thôn này tới vị trí có chùa Quang Hoa. Dân thôn Thiền Quang dựng chùa ở phía Nam chùa Quang Hoa, nhưng chùa lại quay mặt về hướng Tây theo đúng tình trạng trước đây khi còn ở thôn Thiền Quang, nay ở số 33 phố Trần Bình Trọng. Trong chùa vẫn còn lưu giữ được tấm bia khắc năm 1882 kể về lai lịch chùa. Đặc biệt ở tam quan chùa có treo một chuông lớn, Cứ vào 17h hàng ngày, trụ trì sẽ lên thỉnh chuông âm vang khắp khu vực làm tăng vẻ huyền bí, trang nghiêm, thanh tịnh.
Thôn Pháp Hoa do hoàn cảnh gấp gáp lúc chuyển nên đã nhập vào chùa Quang Hoa. Tuy vậy sau đó dân thôn muốn có sự tách bạch nên đã đưa chính quyền phân xử. Tòa án đã quyết định cắt 2 dãy nhà phụ 3 gian sát bờ hồ của chùa Quang Hoa cho người dân làng Pháp Hoa làm địa điểm dựng chùa riêng, bức tường ngăn cách 2 chùa Quang Hoa và Pháp Hoa được xây dựng từ đó. Chùa Pháp Hoa quay ra hướng Đông tức qua ra hồ, cũng giữ hướng của thôn cũ. Hiện trong chùa còn bia khắc năm thứ 12 niên hiệu Tự Đức (1860) ghi rõ: “Chùa bản thôn tên gọi Pháp Hoa là danh lam cổ tích… một chùa nổi tiếng xưa nay…”. Bia cũng ghi việc dân làng Pháp Hoa góp tiền của xây dựng chùa vào năm 1860, tuy vậy do chùa đã chuyển chỗ nên điều này cũng gây ra hiểu lầm cho nhưng người không nắm rõ được sự việc nghĩ là chùa được dựng từ lâu tại vị trí hiện tại.
Hòa bình lập lại, từ năm 1958 đến 1960, một công cuộc cải tạo khu vực này được tiến hành rầm rộ, kết quả là hồ chính được cho là có bề mặt nước 7 mẫu Bắc Bộ (khoảng 2,5 ha) đã được thông với các hồ xung quanh tạo thành hồ có diện tích tới hơn 20 ha trong tổng thể hơn 50 ha công viên. Nhưng cùng với đó là các thôn xưa đã mất dạng, chỉ còn hồ Thiền Quang ở phía Bắc công viên, phố Thiền Quang và cụm 3 chùa Quang Hoa, Thiền Quang, Pháp Hoa ở gần như cùng một vị trí phía Tây hồ là gợi nhớ tới hồn xưa.
Bài viết của L. Phương
Bản đồ và ảnh sưu tầm
Sự tích sông Tô Lịch
Ngày xưa về đời nhà Lý có một ông vua bị bệnh đau mắt. Mấy ông thầy thuốc chuyên môn chữa mắt ở trong kinh thành cũng như ngoài nội thành đều được vời vào cung chạy chữa, trong số đó cũng có những lương y nổi tiếng, nhưng tất cả mọi cố gắng đều vô hiệu. Cặp mắt của vua cứ sưng húp lên, đêm ngày nhức nhối rất khó chịu. Ðã gần tròn hai tháng vua không thể ra điện Kinh Thiện coi chầu được. Triều đình vì việc vua đau mắt mà rối rít cả lên. Những cung giám chạy khắp nơi tìm thầy thuốc, và lễ bái các chùa đền, nhưng mắt của thiên tử vẫn không thấy bớt.Một hôm có hai tên lính hầu đưa vào cung một thầy bói từ núi Vân Mộng về. Ông thầy chuyên bói dịch nổi tiếng trong một vùng. Sau khi gieo đốt mấy cỏ thi, ông thầy đoán:
– Tâu bệ hạ, quẻ này có tượng vua rất linh nghiệm. Quả là bệ hạ bị “thuỷ phương càn tuất” xuyên vào mắt cho nên bệ hạ không thể bớt được, trừ phi trấn áp nó đi thì không việc gì.
Vùa bèn sai hai viên quan trong thành. Thuở ấy ở phía Tây bắc thành Thăng Long có hai con sông nhỏ: [Tô Lịch] và Thiên Phù đều hợp với nhau để thông ra sông Cái ở chỗ cứ như bây giờ là bến Giang Tân. Họ tới ngã ba sông dựng đàn cúng Hà Bá để cầu thần về bệnh của vua. Ðêm hôm đó, một viên quan ăn chay sẵn nằm trước đàn cầu mộng. Thần cho biết: “đến sáng tinh sương ngày ba mươi cho người đến đứng ở bên kia bến đò, ai đến đó trước tiên lập tức bắt quẳng xuống sông phong cho làm thần thì trấn áp được”
Nghe hai viên quan tâu, vua lập tức sai mấy tên nội giám chuẩn bị làm công việc đó. Một viên đại thần nghe tin ấy, khuyên vua không làm việc thất đức, nhưng vua nhất định không nghe. Con mắt của vua là rất trọng mà mạng của một vài tên dân thì có đáng kể gì. Hơn nữa sắp sửa năm hết tết đến, việc đau mắt của vua sẽ ảnh hưởng nhiều đến nghi lễ long trọng và quan hệ của triều đình.
Ở làng Cảo thuộc về tả ngạn sông Tô hồi ấy có hai vợ chồng làm nghề bán dầu rong, người ta vẫn quen gọi là ông Dầu bà Dầu. Hàng ngày hai vợ chồng buổi sáng đưa dầu vào thành bán, buổi chiều trở ra: vợ nấu ăn chồng đi cất hàng.
Hôm đó là ngày ba mươi tháng một, hai vợ chồng định bụng bán mẻ dầu cho một số chùa chiền. Vào khoảng cuối năm, người ta cần dùng nhiều dầu để thắp Tết. Họ dậy thật sớm, chồng gánh chảo, vợ vác gáo cùng tiến bước đến ngã ba [Tô Lịch] – Thiên Phù. Ðến đây họ vào nghỉ chân trong lò canh đợi đò. Ðường vắng tanh chưa có ai qua lại. Nhưng ở trong chòi thì vẫn có hai tên lính đứng gác. Vừa thấy có người, chúng xông ra làm cho hai vợ chồng giật mình. Họ không ngờ hôm ấy lại có quân cấm vệ đứng ở đây. Tuy thấy mặt mũi chúng hung ác, nhưng họ yên tâm khi nghe câu hỏi của chúng:
– Hai người đi đâu sớm thế này?
Họ cứ sự thật trả lời. Họ có ý phân bua việc bán dầu hàng ngày của mình chỉ vừa đủ nuôi miệng. Chúng cứ lân la hỏi chuyện mãi. Chúng nói:
– à ra hai người khổ cực như thế đó. Vậy nếu có tiền thừa thãi thì hai người sẽ thích món gì nào. Nói đi! Nói đi, rồi chúng tôi sẽ kiếm cách giúp cho.
Thấy câu chuyện lại xoay ra như thế, ông Dầu bà Dầu có vẻ ngạc nhiên. Nhưng trước những lời hỏi dồn của chúng, họ cũng phải làm bộ tươi cười trả lời cho qua chuyện:
– Tôi ấy à? Người chồng đáp. Tôi thì thấy một đĩa cơm nếp và một con mái ghẹ là đã tuyệt phẩm.
Người vợ cũng cùng ý như chồng nhưng có thêm vào một đĩa bánh rán là món bà thèm nhất.
Thấy chưa có đò, hai vợ chồng lấy làm sốt ruột. Nói chuyện bài bây mãi biết bao giờ mới vào thành bán mẻ dầu đầu tiên cho chùa Vạn Thọ. Hai người bước ra nhìn xuống sông. Hai tên lính từ nãy đã rình họ, bấy giờ mới bịt mắt họ và lôi đi sềnh sệch. Họ cùng van lên:
– Lạy ông, ông tha cho chúng cháu, chúng cháu chẳng có gì.
Nhưng hai tên lính chẳng nói chẳng rằng, cứ cột tay họ lại và dẫn đến bờ sông. Chúng nhấc bổng họ lên và cùng một lúc ném mạnh xuống nước. Bọt tung sóng vỗ. Và hai cái xác chìm nghỉm. Rồi đó, chúng cắm cổ chạy.
Lại nói chuyện mắt vua sáng mồng một tháng chạp tự nhiên khỏi hẳn như chưa từng có việc gì. Nhưng [ông Dầu] bà Dầu thì căm thù vô hạn. Qua hôm sau hai tên cấm vệ giết người không biết vì sao tự treo cổ gốc đa trong hoàng thành. Rồi giữa hôm mồng một Tết, lão chủ quán ở bên kia Giang Tân phụ đồng lên giữa chùa Vạn Thọ nói toàn những câu phạm thượng. Hắn nói những câu đứt khúc, nhưng người ta đều hiểu cả, đại lược là:
– Chúng ta là ông Dầu bà Dầu đây… Chúng mày là quân tàn ác dã man, chúng mày là quân giết người lương thiện… Chúng mày sẽ chết tuyệt diệt… Họ Lý chúng mày sẽ không còn một mống nào để mà nối dõi… Chúng tao sẽ thu hẹp hai con sông [Tô Lịch] và Thiên Phù lại… Chừng nào bắt đầu thì chúng mày đừng hòng trốn thoát…
Những tin ấy bay về đến tai vua làm cho nhà vua vô cùng lo sợ. Vua sai lập một đền thờ ở trên ngã ba Giang Tân và phong cho hai người là phúc thần. Mỗi năm cứ đến ba mươi tháng một là có những viên quan bộ Lễ được phái đến đây cúng ông Dầu bà Dầu với những món ăn mà họ ưa thích.
Nhưng ngôi báu nhà Lý quả nhiên chẳng bao lâu lọt về tay nhà Trần. Dòng họ Lý quả nhiên chết tuyệt diệt, đến nỗi chỉ người nào đổi qua họ Nguyễn mới hòng trốn thoát.
Sông Thiên Phù quả nhiên cứ bị lấp dần, lấp dần cho mãi đến ngày nay chỉ còn một lạch nước nhỏ ở phía Nhật Tân. Sông [Tô Lịch] cũng thế :ngày nay chỉ là rãnh nước bẩn đen ngòm. Duy có miếu thờ ông Dầu bà Dầu thì hàng năm dân vùng Bưởi vẫn mang lễ vật theo sở thích của hai vợ chồng đến cúng lễ vào ngày ba mươi tháng mười một.
Nguồn: Tổng hợp.
