NHÌN NHẬN HIỂU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG NHƯ THẾ NÀO?
Video chi tiết
Ngân hàng là nhóm ngành đặc thù, báo cáo tài chính và chỉ số hiệu quả hoạt động rất khác so với doanh nghiệp sản xuất. Vậy làm thế nào để chúng ta đánh giá một ngân hàng có hoạt động hiệu quả hay không? Và ngân hàng có đang quản trị rủi ro tốt hay không?
Đầu tiên nói về hiệu quả hoạt động của ngân hàng, sẽ có một vài tỷ lệ sau đây:
- CIR: Tỷ lệ chi phí trên thu nhập. Nhìn vào CIR chúng ta sẽ biết được với 1 đồng thu nhập hoạt động tạo ra, ngân hàng cần bao nhiêu đồng chi phí cho hoạt động. Một ngân hàng có tỷ lệ CIR thấp sẽ thể hiện được khả năng vận hành hệ thống hiệu quả và kiểm soát chi phí tốt. Tỷ lệ CIR của các ngân hàng Việt Nam dao động từ 30% - 50%. Và tất nhiên, nhóm ngân hàng hiệu quả sẽ nằm ở cận dưới.
- COF: Chi phí vốn huy động. Thể hiện năng lực huy động vốn của ngân hàng. Một ngân hàng có COF thấp sẽ là tiền đề để NIM (Bên dưới) tốt hơn các ngân hàng khác. Và COF sẽ biến động theo từng giai đoạn của nền kinh tế, tùy vào chính sách tiền tệ và định hướng của Ngân hàng nhà nước sẽ tác động tới COF của Ngân hàng. Để so sánh khách quan, cần so sánh COF của các ngân hàng trong cùng thời điểm.
- NIM: Tỷ suất lợi nhuận ròng. Sẽ hơi khác so với biên lợi nhuận ròng của các doanh nghiệp sản xuất, NIM của một ngân hàng đánh giá khả năng tạo ra lãi thuần (sau khi trừ chi phí huy động) trên phần tài sản sinh lãi. NIM của mỗi ngân hàng sẽ có sự khác nhau, khó để so sánh vì mỗi ngân hàng sẽ có chiến lược, tệp khách hàng khác nhau. Và cũng như COF, NIM cũng sẽ biến động nhiều theo chính sách của ngân hàng nhà nước. Câu chuyện cải thiện NIM sẽ phụ thuộc khá nhiều thứ, CASA (bên dưới) sẽ là một yếu tố quan trọng vì ngân hàng sẽ trả ít chi phí hơn cho đầu vào.
-
CASA: Tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn. CASA của ngân hàng sẽ phụ thuộc nhiều yếu tố như mạng lưới và thương hiệu, Hệ sinh thái dịch vụ xoay quanh, và tệp khách hàng (Tệp KH doanh nghiệp thường sẽ duy trì số dư cao trong tài khoản thanh cảo cho các nhu cầu ngắn hạn).
Tiếp theo cần phải nói về nợ xấu của ngân hàng. - Tỷ lệ nợ xấu: Tỷ lệ nợ nhóm 3 – nhóm 5 so với tổng dư nợ. Một tỷ lệ nợ xấu tăng cao cho thấy tệp khách hàng cho vay của ngân hàng có khả năng tập trung nhiều rủi ro. Vì khi cho vay tập trung vào một nhóm ngành, và nếu nhóm ngành đó xảy ra vấn đề thì nợ xấu ngân hàng có khả năng tăng mạnh. Nhưng phải nhìn theo bức tranh toàn cảnh ngành, những thông tư từ NHNN có thể can thiệp và tác động nhiều đến nợ xấu toàn ngành.
-
Tỷ lệ bao phủ nợ xấu: Cho thấy ngân hàng có trang trích lập dự phòng nhiều hay không cho nhóm nợ xấu. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu cao như một tấm đệm an toàn giúp cho ngân hàng có thể tăng trưởng lợi nhuận về dài hạn.
=> Khi đánh giá các tỷ lệ của một ngân hàng, cần có cái nhìn tổng quan trên nhiều khía cạnh như tệp khách hàng, kết hợp nhiều chỉ số để nhìn nhận, và đặt trong bối cảnh vĩ mô đang như thê nào.
Liên hệ Thành để được tư vấn chi tiết.