SJF, SDA: cafef vccorp rửa bài báo qua tạp chí doanh nghiệp tiếp thị toàn viết bài vớ vẩn, đánh đấm doanh nghiệp

,

bọn cafef vccorp rửa bài báo qua tạp chí doanh nghiệp tiếp thị toàn viết bài vớ vẩn, đánh đấm doanh nghiệp. tin lời cafef, broker và chuyên gia chứng khoán dởm thì chỉ có ăn cám. SDA mới được tôn là “Tesla của Việt Nam” nhé, còn SJF là hoa hậu xứ Mường Mai Châu. bọn phóng viên lá cải chộp giật câu chữ, viết sai lệch vô đạo đức, nhân phẩm vứt đi đâu hả phóng viên diều hâu, môi giới dớm, chuyên gia bốc phét. Không tự mình đến doanh nghiệp tìm hiểu mà toàn đi viết bài, “phân tích” xàm xí. Toàn viết bài để câu view, đánh đấm doanh nghiệp chờ những “hợp đồng truyền thông” đây mà.
https://fireant.page.link/XM221QNJSZeajtBu9
https://nhipcaudautu.vn/kinh-doanh/cong-nghiep-thep-xanh-tu-cay-tre-3339668/

hoa hậu thép xanh https://nhipcaudautu.vn/kinh-doanh/cong-nghiep-thep-xanh-tu-cay-tre-3339668/

Trên thế giới, vật liệu được làm từ tre rất được ưa chuộng do có nhiều ưu điểm như độ cứng cao, ít bị trầy xước, có khả năng chịu mài mòn, chịu nhiệt, chịu nước tốt. Các sản phẩm làm từ tre an toàn cho người sử dụng, thân thiện môi trường, tạo không gian xanh, nhiều mẫu mã và độ bền cao, giá cả hợp lý… Vì thế, tre được coi là “thép xanh” và lựa chọn thay thế cho các sản phẩm gỗ đang dần bị khai thác cạn kiệt.

Nhu cầu về tre ép khối tăng liên tục, đặc biệt ở các thị trường phát triển như châu Âu và Bắc Mỹ, để làm các sản phẩm từ ván xây dựng, ván sàn cho đến khung cửa, cầu thang, sản phẩm nội thất và đồ gia dụng.

So với ngành sản xuất gỗ, ngành sản xuất tre công nghiệp mang lại nhiều giá trị gia tăng hơn cho Việt Nam, vì trừ keo ép phải nhập khẩu, các nguyên liệu đầu vào khác đều được cung cấp trong nước. Ngành này còn đem lại nhiều giá trị hơn cho người dân trồng tre so với các ngành khác nên được xem là ngành giúp phát triển bền vững cho vùng miền núi và nông thôn.

Số liệu từ Hiệp hội Gỗ cho thấy, giá trị thương mại toàn cầu ngành tre giai đoạn 2018 - 2019 đạt gần 70 tỷ USD. Nhưng sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là mây tre (sau Trung Quốc, EU và Indonesia), vốn là hàng thủ công mỹ nghệ, chứ không phải hàng công nghiệp, càng không phải nhóm ngành gỗ.

Việt Nam là một trong những nước thuận lợi để phát triển ngành tre công nghiệp với hơn 1,5 triệu ha rừng tre nguyên liệu, chủ yếu tập trung ở khu vực miền núi phía Bắc Thanh Hóa, Nghệ An, Hòa Bình, Sơn La…

Tuy nhiên, mặc dù đã bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam vào khoảng năm 2005, đến nay, ngành sản xuất vật liệu tre công nghiệp vẫn còn rất nhỏ. Hiện tại, có 5 doanh nghiệp có thể sản xuất tấm tre ép công nghiệp, trong đó phần lớn là quy mô nhỏ.

Chỉ một doanh nghiệp có công suất lớn trên 100.000 m3/năm có thể sản xuất được cả 2 dòng sản phẩm tre ghép thanh và tre ép khối là BWG Mai Châu.

Các doanh nghiệp Việt Nam tiềm lực mỏng, lại thiếu tầm nhìn xa nên chưa có các nghiên cứu bài bản và hoàn chỉnh, chưa mạnh tay đầu tư cho công nghệ sản xuất tre ép khối từ nguồn nguyên liệu trong nước.

Mở ra thị trường tỷ USD

Năm 2020, lần đầu tiên tại Việt Nam, các nhà nghiên cứu của Viện Nghiên cứu công nghiệp rừng (FIRI), Đại học Lâm nghiệp và Công ty cổ phần BWG Mai Châu đã hợp tác chế tạo thành công vật liệu tre ép khối, mở ra lựa chọn thay thế cho sản phẩm cùng loại nhập khẩu từ Trung Quốc.

Tre ép khối, tên thương mại là Pressed Bamboo Blocks (PBB) hay Strand Woven Bamboo (SWB), là một loại composite đặc biệt của tre, được tạo ra từ các nan tre và một số loại chất kết dính (keo) chuyên dùng, tạo ra sản phẩm có tính chất cơ học tương đương gỗ.

Việc làm chủ công nghệ này đã mở ra cánh cửa mới cho SJF trong việc chế biến hàng xuất khẩu và tiêu thụ trong nước. Công nghệ mới cũng giúp doanh nghiệp không phải sử dụng nhiều nhân công khi mỗi máy đòi hỏi ít công nhân đảm nhận việc đưa nguyên liệu thô và xếp thành phẩm.

Hiện nay, Trung Quốc gần như là nhà sản xuất tre ép khối thương mại duy nhất. Nhiều doanh nghiệp từ quốc gia này gặp khó khăn trong việc bắt kịp tốc độ tiêu thụ toàn cầu và đang ra sức tìm kiếm các thỏa thuận mua tre từ những quốc gia láng giềng nhằm tăng công suất.

Trong khi đó, Việt Nam nằm trong vùng trung tâm phân bố tre của thế giới, sở hữu 121 loài tre trúc, nhưng cho đến nay, cơ cấu giá trị ngành chế biến mây tre là 95% từ nhóm hàng truyền thống và 5% từ nhóm hàng mới, quy mô công nghiệp (tre ép ván làm đồ nội thất hoặc phục vụ xây dựng, than tre hoạt tính, sợi từ tre…).

Bởi vậy, phát triển các sản phẩm tre ép khối thay thế gỗ có thể coi là một hướng đi tiềm năng cho Việt Nam. TS. Nguyễn Quang Trung, Viện trưởng Viện Nghiên cứu công nghiệp rừng cho biết, nguồn nguyên liệu tre ở Việt Nam rất lớn, giá thu mua nguyên liệu đầu vào rẻ, chỉ bằng 1/3 của Trung Quốc, do đó giá thành sản phẩm sẽ thấp hơn rất nhiều.

Trong khi đó, TS. Nguyễn Trọng Nghĩa, nhà sáng lập BWG Mai Châu nhận định: “Tre công nghiệp ở Việt Nam được dự báo sẽ có những bước phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới, khi chuỗi giá trị ngành tre được hình thành. Sự chuyển dịch của chuỗi cung ứng sang Việt Nam kết hợp với sự chuyển dịch mạnh mẽ của việc sử dụng vật liệu tre công nghiệp thay thế gỗ đã và đang tạo cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam”.

Cũng theo TS. Nghĩa, với cơ sở vật chất hiện có, các doanh nghiệp chế biến gỗ Việt Nam có thể sản xuất thêm hoặc chuyển dịch sang sản xuất các sản phẩm từ vật liệu tre theo yêu cầu của khách hàng một cách dễ dàng mà gần như không phải đầu tư thêm.

Sự tham gia của các doanh nghiệp chế biến gỗ tại Việt Nam sẽ giúp hoàn thiện chuỗi giá trị phát triển bền vững cho ngành tre công nghiệp Việt Nam, đồng thời giúp hiện thực hóa tiềm năng giá trị nhiều tỷ USD của ngành tre Việt Nam.

Đại diện SJF cho biết, Công ty đang tiếp tục đầu tư nhà xưởng để gia tăng công suất. Dù kế hoạch này đòi hỏi nguồn lực lớn nhưng đầu ra rất rộng chính là dư địa để Công ty tin tưởng bỏ vốn. Khi khó khăn về logistic được hóa giải, hoạt động xuất khẩu của Công ty sẽ cải thiện mạnh mẽ trong thời gian tới.

Việt Nam là một trong những nước thuận lợi để phát triển ngành tre công nghiệp với hơn 1,5 triệu ha rừng tre nguyên liệu chủ yếu tập trung ở khu vực miền núi phía Bắc Thanh Hóa, Nghệ An, Hòa Bình, Sơn La… Tuy nhiên, mặc dù đã bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam vào khoảng năm 2005, đến nay ngành sản xuất vật liệu tre công nghiệp ở Việt Nam vẫn còn rất nhỏ. Hiện tại, có 5 doanh nghiệp có thể sản xuất tấm tre ép công nghiệp, trong đó phần lớn là quy mô nhỏ. Chỉ một doanh nghiệp có công suất lớn trên 100.000 m3/năm có thể sản xuất được cả 2 dòng sản phẩm tre ghép thanh và tre ép khối là BWG Mai Châu. Phần lớn các doanh nghiệp này thực hiện toàn bộ công đoạn sản xuất ra sản phẩm cuối cùng, chứ không thực hiện theo chuỗi.
Tiến sĩ Nguyễn Trọng Nghĩa, nhà sáng lập BWG Mai Châu, nhận định: “Tre công nghiệp ở Việt Nam được dự báo sẽ có những bước phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới, khi chuỗi giá trị ngành tre được hình thành. Sự chuyển dịch của chuỗi cung ứng sang Việt Nam kết hợp với sự chuyển dịch mạnh mẽ của việc sử dụng vật liệu tre công nghiệp thay thế gỗ đã và đang tạo cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam. Với cơ sở vật chất hiện có, các doanh nghiệp chế biến gỗ Việt Nam có thể sản xuất thêm hoặc chuyển dịch sang sản xuất các sản phẩm từ vật liệu tre theo yêu cầu của khách hàng một cách dễ dàng mà gần như không phải đầu tư thêm. Sự tham gia của các doanh nghiệp chế biến gỗ tại Việt Nam sẽ giúp hoàn thiện chuỗi giá trị phát triển bền vững cho ngành tre công nghiệp Việt Nam, đồng thời giúp hiện thực hóa tiềm năng giá trị nhiều tỉ đô của ngành tre Việt Nam.
Khi rừng ngày càng cạn kiệt thì việc tre ngày càng có tầm quan trọng. “Đó là một thứ cây có thể dùng vào vô vàn việc” – đại diện của tổ chức châu Âu về mây-tre INBAR (thuộc LHQ và châu Âu) tuyên bố. INBAR có dự án xây dựng những ngôi nhà tiền chế bằng tre, thích hợp với khí hậu châu Âu, giá khoảng 100 euro/m2. Những ngôi nhà như thế cũng rất thích hợp với các nước nghèo hay các nước đang phát triển, nơi tre mọc nhiều.

Năng suất của một rừng tre gấp 25 lần so với một khu rừng thông thường. Mỗi năm, một héc ta cho từ 22-44 tấn tre. Chỉ 3-5 năm sau khi trồng, tre đã có thể thu hoạch mà không cần phải trồng mới vì tự mọc lại liên tục.
Tre còn giữ đất khỏi bị xói mòn, hấp thu lượng khí CO2 nhiều gấp 4 lần so với một khu rừng mới, sản sinh lượng khí ôxy nhiều hơn 35%.

Tre ở thời điểm hiện tại chỉ là một vật liệu đầy hứa hẹn cho tương lai của ngành công nghiệp vật liệu. Các nhà nghiên cứu hiện đang tìm ra cách tối ưu hóa cây tre nhằm dùng nó để thay thế sắt thép, ống nhựa, sợi carbon nhân tạo. Không chỉ bảo vệ môi trường, góp phần hạ giá thành của các quy trình sản xuất, mà không một bộ phận nào của tre phải bỏ đi, khiến giá trị và tính sử dụng của nó vốn đã cao nay càng hữu ích hơn.
https://kinhtemoitruong.vn/thep-xanh-vat-lieu-xay-dung-than-thien-voi-moi-truong-53670.html

nhân 10

Ngành nghề tiềm năng,còn tăng ác nữa