TOPIC về các doanh nghiệp có BTCT quý 3/2021 tăng trưởng

SeABank vượt 35% kế hoạch lãi trước thuế năm 2021

28-01-2022 11:26:10+07:00

28/01/2022 11:26 [ 2](javascript:void(0))

Ngân hàng TMCP Đông Nam Á (SeABank, HOSE: SSB) báo lãi trước và sau thuế năm 2021 tăng 89% và 92% so với năm trước, đạt lần lượt 3,269 tỷ đồng và 2,607 tỷ đồng nhờ tăng thu nhập chính và dịch vụ.

Năm 2021, nguồn thu chính của SeABank tăng đến 69% so với năm trước, thu về 5,186 tỷ đồng thu nhập lãi thuần. Thu từ lãi cho vay khách hàng tăng 8 % (9,720 tỷ đồng), thu lãi từ đầu tư chứng khoán tăng 18% (1,751 tỷ đồng).

Lãi từ hoạt động dịch vụ là nguồn thu phi tín dụng tăng mạnh nhất trong năm của SeABank, gấp 3.2 lần năm trước. Gần 1,146 tỷ đồng tiền lãi từ hoạt động dịch vụ chủ yếu nhờ tăng thu từ hoa hồng môi giới bảo hiểm và thu phí dịch vụ.

Hoạt động kinh doanh ngoại hối đem về khoản lãi gần 149 tỷ đồng, tăng 99%, nhờ tăng thu 70% từ kinh doanh ngoại tệ (1,182 tỷ đồng).

Nhờ lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh tăng 87%, ghi nhận hơn 4,506 tỷ đồng, nên dù chi phí dự phòng rủi ro tín dụng tăng 83% (1,237 tỷ đồng), SeABank vẫn báo lãi trước và sau thuế năm 2021 tăng 89% và 92% so với năm trước, đạt lần lượt 3,269 tỷ đồng và 2,607 tỷ đồng.

So với kế hoạch 2,414 tỷ đồng lãi trước thuế đã đề ra cho cả năm 2021, SeABank đã vượt 35% chỉ tiêu.

Kết quả kinh doanh hợp nhất quý 4/2021 của SSB. Đvt: Tỷ đồng

Nguồn: BCTC hợp nhất quý 4/2021 của SSB

Tính đến 31/12/2021, tổng tài sản Ngân hàng tăng 17% so với đầu năm, lên mức 211,664 tỷ đồng. Trong đó, tiền gửi tại NHNN tăng đến 42% (4,799 tỷ đồng), tiền gửi tại TCTD khác tăng 37% (35,233 tỷ đồng), cho vay TCTD khác ghi nhận đến 7,357 tỷ đồng trong khi đầu năm chỉ có 100 tỷ đồng, cho vay khách hàng tăng 17% (127,588 tỷ đồng).

Về nguồn vốn kinh doanh, tiền gửi khách hàng lại giảm 3% so với đầu năm, chỉ còn 109,785 tỷ đồng. Phát hành giấy tờ có giá gấp 2.7 lần, ghi nhận 19,053 tỷ đồng, chủ yếu là trái phiếu có kỳ hạn từ 12 tháng đến dưới 5 năm tăng 10 lần (9,900 tỷ đồng).

Một số chỉ tiêu tài chính của SSB tính đến 31/12/2021. Đvt: Tỷ đồng

Nguồn: BCTC hợp nhất quý 4/2021 của SSB

Chất lượng nợ vay của SeABank gần như đi ngang so với đầu năm, tổng nợ xấu tại ngày 31/12/2021 ghi nhận 2,104 tỷ đồng, tăng 4%. Tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay giảm từ 1.86% đầu năm xuống còn 1.65%.

Chất lượng nợ vay của SSB tính đến 31/12/2021. Đvt: Tỷ đồng

Nguồn: BCTC hợp nhất quý 4/2021 của SSB

ROS báo lãi quý 4 giảm gần 60%

30-01-2022 22:00:00+07:00

30/01/2022 22:00 [ 0](javascript:void(0))

Chi phí tăng mạnh trong quý khiến lãi ròng của ROS giảm mạnh dù lãi gộp gấp 8 lần cùng kỳ.

Kết quả kinh doanh quý 4 và cả năm 2021 của ROS

Nguồn: BCTC hợp nhất quý 4/2021 của ROS

Doanh thu thuần hợp nhất của CTCP Xây dựng FLC Faros (HOSE: ROS) đạt hơn 688 tỷ đồng trong quý 4/2021, tăng 180% so với cùng kỳ năm trước. Lãi gộp của Công ty đạt hơn 105.3 tỷ đồng, gấp 8 lần cùng kỳ.

So với năm trước, doanh thu tài chính giảm tới 90% về còn 21 tỷ đồng. Song song đó, chi phí tài chính tăng mạnh so với năm trước, lên tới 40.7 tỷ đồng. Chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp cũng tăng cao, tổng cộng ở mức 67.5 tỷ đồng, gấp 7 lần cùng kỳ. Bù lại là khoản lợi nhuận khác gần 70 tỷ đồng do ghi nhận chênh lệch đánh giá lại tài sản, cao hơn so với con số lỗ 11.2 tỷ đồng cùng kỳ năm trước.

Kết thúc quý 4, ROS báo lãi ròng 62.1 tỷ đồng, giảm 60% so với năm trước.

Năm 2021, doanh thu thuần đạt gần 2.5 ngàn tỷ đồng, tăng 40% so với năm trước. Lãi ròng đạt 95.2 tỷ đồng, tăng mạnh so với kết quả chưa tới 1 tỷ đồng năm trước.

Tổng tài sản của ROS cuối năm 2021 đạt hơn 12 ngàn tỷ đồng, tăng 14.5% so với đầu năm. Khoản mục phải thu ngắn hạn khác tăng mạnh từ 414 tỷ đồng lên hơn 1,355 tỷ đồng.

Thuyết minh phải thu ngắn hạn khác của ROS

Nguồn: BCTC hợp nhất quý 4/2021 của ROS

Công ty đang góp vốn hơn 2.4 ngàn tỷ đồng vào các công ty khác, gấp hơn 7.3 lần đầu năm. Trong đó khoản đầu tư nổi bật nhất là góp vốn 900 tỷ đồng vào CTCP Hàng không Tre Việt (Bamboo Airways), 1,087 tỷ đồng vào CTCP Quản lý vốn và tài sản FLC Holding và gần 324 tỷ đồng vào CTCP Đầu tư Kinh doanh Phát triển Bất động sản FLCHomes.

Các khoản đầu tư tài chính dài hạn của ROS

Nguồn: BCTC hợp nhất quý 4/2021 của ROS

1 Likes

Kienlongbank lần đầu tiên báo lãi trước thuế vượt mốc 1,000 tỷ đồng

30-01-2022 20:00:00+07:00

30/01/2022 20:00 [ 3](javascript:void(0))

Lần đầu tiên Ngân hàng TMCP Kiên Long (Kienlongbank, UPCoM: KLB) công bố lãi trước thuế năm vượt hơn 1,000 tỷ đồng.

Năm 2021, nguồn thu chính của KLB đem về gần 1,931 tỷ đồng thu nhập lãi thuần, gấp đôi năm trước. Thu nhập lãi tiền gửi giảm 14% (còn 87 tỷ đồng) nhưng thu nhập lãi cho vay tăng 37% (lên 5,114 tỷ đồng), thu từ lãi đầu tư chứng khoán gấp 2.7 lần (195 tỷ đồng).

Hoạt động dịch vụ trong năm cũng đem về gần 256 tỷ đồng tiền lãi, gấp 3 lần năm trước, nhờ tăng thu dịch vụ bảo hiểm và phát sinh 165 tỷ đồng thu dịch vụ tư vấn.

Lãi từ hoạt động khác giảm đến 62%, chỉ còn gần 39 tỷ đồng do giảm tiền thu bán tài sản gán nợ.

Năm trước, KLB được hoàn nhập 2.4 tỷ đồng chi phí dự phòng rủi ro tín dụng, trong khi năm nay phải trích gần 82 tỷ đồng chi phí dự phòng. Kết quả, Ngân hàng báo lãi trước thuế năm 2021 vượt 1,010 tỷ đồng, gấp 6.4 lần năm trước. Đây cũng là năm đầu tiên Ngân hàng vượt mốc 1,000 tỷ đồng lợi nhuận và hoàn thành kế hoạch năm đã đề ra.

Kết quả kinh doanh hợp nhất quý 4/2021 của KLB. Đvt: Tỷ đồng

Nguồn: BCTC hợp nhất quý 4/2021 của KLB

Tính đến cuối quý 4, tổng tài sản Ngân hàng tăng đến 46% so với đầu năm, ghi nhận 83,822 tỷ đồng. Trong đó, tiền gửi tại NHNN tăng đến 36% (4,755 tỷ đồng), tiền gửi tại TCTD khác gấp 2.4 lần (29,085 tỷ đồng)…

Tiền gửi khách hàng tăng 22% so với đầu năm, ghi nhận 51,397 tỷ đồng. Tiền gửi của các TCTD khác gấp 2.8 lần (25,772 tỷ đồng)…

Một số chỉ tiêu tài chính của KLB tính đến 31/12/2021. Đvt: Tỷ đồng

Nguồn: BCTC hợp nhất quý 4/2021 của KLB

Một điểm sáng nữa của KLB trong năm 2021 là Ngân hàng đã xử lý dứt điểm các khoản cho vay có tài sản đảm bảo là cổ phiếu STB. Kéo tổng nợ xấu tại thời điểm 31/12/2021 giảm đến 61% so với đầu năm, chỉ còn hơn 726 tỷ đồng. Nợ có khả năng mất vốn giảm đến 70%. Kết quả kéo tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay giảm mạnh từ 5.42% đầu năm xuống còn 1.89%.

Chất lượng nợ vay của KLB tính đến 31/12/2021. Đvt: Tỷ đồng

Nguồn: BCTC hợp nhất quý 4/2021 của KLB

Lãi trước thuế 2021 gần như đi ngang, nợ xấu VietinBank tăng 49%

30-01-2022 15:00:00+07:00

30/01/2022 15:00 [ 4](javascript:void(0))

Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam (VietinBank, HOSE: CTG) báo lãi trước thuế năm 2021 chỉ tăng nhẹ 3% so với năm trước, ghi nhận gần 17,589 tỷ đồng do tăng trích lập dự phòng rủi ro tín dụng. Trong khi nợ xấu lại tăng đến 49% so với đầu năm.

Năm 2021, hoạt động chính của VietinBank tăng trưởng 17% so với năm trước khi mang về hơn 41,788 tỷ đồng thu nhập lãi thuần, chủ yếu là thu nhập lãi cho vay khách hàng và thu lãi từ kinh doanh, đầu tư chứng khoán nợ.

Các nguồn thu phi tín dụng tăng trưởng không đồng nhất. Lãi từ hoạt động dịch vụ (+14%) và lãi từ hoạt động khác (+77%) tăng trưởng thì lãi từ mua bán chứng khoán kinh doanh (-18%), chứng khoán đầu tư (-40%) và kinh doanh ngoại hối (-9%) lại sụt giảm so với năm trước.

Trong năm, VietinBank dành ra gần 18,382 tỷ đồng để trích lập dự phòng rủi ro tín dụng, tăng 51%, do đó Ngân hàng báo lãi gần như đi ngang, ghi nhận 17,589 tỷ đồng lãi trước thuế. Lợi nhuận sau thuế cổ đông ngân hàng mẹ cũng đi ngang so với năm trước, đạt hơn 14,092 tỷ đồng.

Tính riêng trong quý 4/2021, lãi trước thuế hợp nhất Ngân hàng giảm đến 46% so với cùng kỳ, chỉ còn hơn 3,678 tỷ đồng, do kỳ này Ngân hàng tăng trích lập dự phòng gấp 6 lần, trích hơn 4,377 tỷ đồng.

Lợi nhuận trước thuế riêng lẻ Ngân hàng đạt 16,860 tỷ đồng, tăng 2% so với cùng kỳ. Nếu so với kế hoạch 16,800 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế riêng lẻ đề ra cho cả năm 2021, VietinBank đã hoàn thành chỉ tiêu.

Kết quả kinh doanh hợp nhất quý 4/2021 của CTG. Đvt: Tỷ đồng

Nguồn: BCTC hợp nhất quý 4/2021 của CTG

Tính đến 31/12/2021, tổng tài sản Ngân hàng tăng 14% so với đầu năm, lên hơn 1.53 triệu tỷ đồng. Trong đó, tiền mặt tăng 14% (11,330 tỷ đồng), tiền gửi tại NHNN giảm mạnh 59% (còn 23,383 tỷ đồng), tiền gửi tại các TCTD khác tăng đến 40% (129,748 tỷ đồng), cho vay TCTD khác tăng 97% (19,517 tỷ đồng), cho vay khách hàng tăng 11% (1.13 triệu tỷ đồng)…

Phần nguồn vốn kinh doanh, tiền gửi khách hàng tăng 17% so với đầu năm, lên hơn 1.16 triệu tỷ đồng. Các khoản nợ Chính phủ và NHNN giảm đến 25% (còn 33,294 tỷ đồng), tiền gửi của các TCTD khác giảm mạnh 66% (còn 33,670 tỷ đồng).

Một số chỉ tiêu tài chính của CTG tính đến 31/12/2021. Đvt: Tỷ đồng

Nguồn: BCTC hợp nhất quý 4/2021 của CTG

Không chỉ kết quả kinh doanh đi ngang mà chất lượng nợ vay của VietinBank còn đi lùi khi tổng nợ xấu tại thời điểm cuối quý 4 tăng đến 49% so với đầu năm, chiếm hơn 14,300 tỷ đồng trong tổng dư nợ. Nợ dưới tiêu chuẩn tăng mạnh nhất, gấp 3.8 lần đầu năm. Kết quả, kéo tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay từ 0.95% đầu năm lên 1.26%.

Chất lượng nợ vay của CTG tính đến 31/12/2021. Đvt: Tỷ đồng

Nguồn: BCTC hợp nhất quý 4/2021 của CTG

Viettel Global đạt gần 1,000 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế năm 2021

30-01-2022 14:49:03+07:00

30/01/2022 14:49 [ 1](javascript:void(0))

DỊCH VỤ

Châu Phi là khu vực tăng trưởng mạnh nhất trong năm của Viettel Global (UPCoM: VGI).

Viettel Global vừa công bố kết quả kinh doanh hợp nhất quý 4 với doanh thu đạt xấp xỉ 4,000 tỷ đồng. Tại hầu hết các thị trường quan trọng của Viettel, doanh thu tăng trưởng mạnh mẽ trong quý 4 tạo nên kết quả kinh doanh ấn tượng. Trong số các điểm sáng nổi bật nhất có Natcom tại Haiti +50%, Movitel tại Mozambique tăng 38%, Star Telecom tại Lào +25%, Mytel tại Myanmar +23%, Halotel tại Tanzania +13%.

Về cơ cấu doanh thu theo các thị trường, khu vực châu Phi chứng kiến sự tăng trưởng ấn tượng 24% từ 1,789 tỷ lên 2,188 tỷ đồng. Khu vực Đông Nam Á và Mỹ Latin đạt lần lượt là 2,098 tỷ và 641 tỷ đồng.

Mặc dù có kết quả tăng trưởng ấn tượng trong quý 4 tại hầu hết các thị trường, nhưng doanh thu hạch toán hợp nhất của VGI lại giảm so với cùng kỳ do phải thay đổi cách ghi nhận theo quy định mới của Bộ Tài chính. Theo đó, doanh thu và lợi nhuận hợp nhất trước thuế của VGI bị hạch toán giảm 1,600 tỷ đồng so với cách hạch toán trước đây (con số theo quy định cũ sẽ là gần 5,600 tỷ đồng). Khoản doanh thu bị giảm này sẽ được hạch toán vào năm 2022.

Trong năm tài chính 2021, VGI thực hiện ghi nhận doanh thu dịch vụ viễn thông theo hướng dẫn của Bộ Tài chính tại Công văn số 7370/BTC-QLKT ngày 18 tháng 6 năm 2020. Theo đó, doanh thu bán thẻ viễn thông trả trước phải được xác định trên cơ sở lưu lượng thực tế mà khách hàng đã sử dụng trong kỳ.

Khoản tiền thu bán thẻ nhưng khách hàng chưa sử dụng dịch vụ sẽ không được phản ánh vào doanh thu trong kỳ mà được chuyển sang ghi nhận doanh thu chưa thực hiện theo chính sách kế toán mới với tổng số tiền là 1,600 tỷ. VGI áp dụng điều chỉnh phi hồi tố theo hướng dẫn tại điểm 1.1.2 Thông tư số 20/2006/TT-BTC ngày 20/3/2006 của Bộ Tài chính hướng dẫn kế toán thực hiện sáu (06) chuấn mực kế toán.

Lũy kế cả năm 2021, Viettel Global đạt 19,289 tỷ đồng doanh thu, tăng nhẹ 2% so với cùng kỳ năm trước (kết quả đã hạch toán giảm 1,600 tỷ đông doanh thu theo quy định mới của Bộ Tài chính). Lợi nhuận gộp đạt hơn 7,300 tỷ đồng, tương ứng tỷ suất lãi gộp trên doanh thu đạt 38%.

Khấu trừ đi các chi phí, Viettel Global đạt 993 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế,.

Tính đến cuối năm 2021, Viettel Global có tổng tài sản hợp nhất đạt 52,414 tỷ đồng và vốn chủ sở hữu đạt 28,061 tỷ đồng. Trên sàn chứng khoán, cổ phiếu VGI hiện dao động quanh mức 30,000 đồng, tương ứng vốn hóa thị trường của công ty đạt 90,700 tỷ đồng, tương đương 4 tỷ USD.

FILI

Vietcombank: Lãi trước thuế 2021 gần 27,376 tỷ đồng, nợ nghi ngờ gấp 4 lần

30-01-2022 12:00:00+07:00

30/01/2022 12:00 [ 3](javascript:void(0))

Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam (Vietcombank, HOSE: VCB) báo lãi trước thuế năm 2021 gần 27,376 tỷ đồng, tăng 19% so với năm trước. Nợ nghi ngờ tăng đột biến so với đầu năm.

Nhìn chung hoạt động kinh doanh năm 2021 của Vietcombank tăng trưởng so với năm trước nhưng không có quá nhiều nổi bật.

Hoạt động chính thu về 42,387 tỷ đồng thu nhập lãi thuần, tăng 17% so với năm trước. Trong khi thu nhập lãi cho vay khách hàng tăng nhẹ 6% thì thu nhập lãi tiền gửi (-25%) và thu nhập lãi từ chứng khoán (-13%) lại giảm mạnh.

Lãi từ hoạt động dịch vụ tăng 12%, lên mức 7,407 tỷ đồng, chủ yếu là thu từ dịch vụ thanh toán và thu khác. Lãi từ kinh doanh ngoại hối cũng tăng 12%, ghi nhận 4,378 tỷ đồng nhờ tăng thu kinh doanh ngoại tệ giao ngay 24% (8,204 tỷ đồng).

Dù không chiếm tỷ trọng nhiều trong cơ cấu thu nhập của Vietcombank, nhưng hoạt động mua bán chứng khoán kinh doanh thu về hơn 104 tỷ đồng lãi, trong khi năm trước chỉ gần 2 tỷ đồng.

Lãi từ hoạt động khác tăng đến 33%, đạt hơn 2,393 tỷ đồng nhờ thu nhập từ các khoản cho vay đã xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro 2,912 tỷ đồng (+20%).

Ở chiều ngược lại, hoạt động mua bán chứng khoán đầu tư đem về khoản lỗ hơn 85 tỷ đồng, trong khi năm trước chỉ lỗ 98 triệu đồng.

Năm nay, Vietcombank dành ra 11,760 tỷ đồng để trích lập chi phí dự phòng rủi ro tín dụng, tăng 18% so với năm trước. Kết quả, Ngân hàng báo lãi trước thuế gần 27,376 tỷ đồng, tăng 19%. Lợi nhuận sau thuế ngân hàng mẹ hơn 21,908 tỷ đồng, cũng tăng 19%.

Như vậy, nếu so với kế hoạch lãi trước thuế hợp nhất gần 25,686 tỷ đồng được đề ra, Vietcombank đã vượt gần 7% chỉ tiêu.

Kết quả kinh doanh hợp nhất quý 4/2021 của VCB. Đvt: Tỷ đồng

Nguồn: BCTC hợp nhất quý 4/2021 của VCB

Tính đến 31/12/2021, tổng tài sản Ngân hàng tăng 7% so với đầu năm, lên hơn 1.4 triệu tỷ đồng. Trong đó, tiền mặt tăng 19% (18,011 tỷ đồng), tiền gửi tại NHNN giảm 32% (còn 22,506 tỷ đồng), cho vay khách hàng tăng 14% (960,749 tỷ đồng)…

Về nguồn vốn kinh doanh, tiền gửi khách hàng tăng 10% so với đầu năm, đạt gần 1.14 triệu tỷ đồng. Phát hành giấy tờ có giá giảm đến 18%, còn 17,387 tỷ đồng, chủ yếu là kỳ phiếu, trái phiếu trung, dài hạn bằng VNĐ.

Một số chỉ tiêu tài chính của VCB tính đến 31/12/2021. Đvt: Tỷ đồng

Nguồn: BCTC hợp nhất quý 4/2021 của VCB

Về chất lượng nợ vay, tính đến cuối quý 4, tổng nợ xấu Vietcombank tăng 17% so với đầu năm, ghi nhận hơn 6,121 tỷ đồng. Đáng chú ý, nợ nghi ngờ tăng đột biến lên hơn 965 tỷ đồng, gấp 4 lần đầu năm. Kết quả, kéo tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay tăng nhẹ từ 0.62% lên 0.64%.

Chất lượng nợ vay của VCB tính đến 31/12/2021. Đvt: Tỷ đồng

Nguồn: BCTC hợp nhất quý 4/2021 của VCB

Thế Giới Di Động: Phình to có đáng lo?

30-01-2022 11:00:00+07:00

30/01/2022 11:00 [ 1](javascript:void(0))

Thế Giới Di Động (HOSE: MWG) đã cùng lúc mở mới thêm 5 chuỗi kinh doanh thời trang, đồ thể thao, mẹ và bé, trang sức, xe đạp, đánh dấu bước đi mới của Tập đoàn này.

Lấn sân vào nhiều ngành

Theo thông tin công bố, MWG sẽ mở mới 5 chuỗi. Trong đó, chuỗi cửa hàng AVASport sẽ bày bán đa dạng sản phẩm phục vụ tập luyện thể thao, gồm: quần áo, giày, xe đạp, phụ kiện, đồng hồ thể thao… với nhiều thương hiệu nổi tiếng như: Adidas, Nike, Puma, Reebok, Skechers,…

Riêng chuỗi AVAFashion bán quần áo đa dạng, gồm cả phụ kiện, trang sức và nhắm đến phân khúc thời trang cho gia đình với giá cả dễ chấp nhận. Phía Thế Giới Di Động cho hay các sản phẩm tại AVAFashion đều được may tại những xưởng may lớn chuyên gia công cho các nhãn hàng nổi tiếng đang có mặt tại Việt Nam hiện nay, cũng như xuất khẩu qua châu Âu.

Thế Giới Di Động còn lấn sang lĩnh vực mẹ và bé

Thế Giới Di Động còn lấn sang lĩnh vực mẹ và bé khi cùng lúc khai trương 4 cửa hàng AVAKids tại TP.HCM. Riêng 2 chuỗi còn lại là AVACycle (xe đạp) và AVAJi (trang sức) được xây dựng theo mô hình “shop-in-shop” - tức các cửa hàng đặt bên trong Thế Giới Di Động hoặc Điện máy Xanh.

AVACycle hiện nay có khoảng 150 cửa hàng, sẽ tận dụng khoảng trống phía trước các cửa hàng Điện máy Xanh để trưng bày xe đạp. Đó là các xe đạp đường phố, xe đạp leo núi, xe đạp đua, xe đạp trẻ em… Cùng đó, AVACycle còn bán các phụ kiện đi kèm như mũ bảo hiểm, găng tay, đèn, bọc yên, túi… Riêng chuỗi AVAJi được nâng cấp từ mảng bán lẻ kính mát cho Nike, Puma, Klein, Guess…và kết hợp thêm đồ trang sức như bông tai, nhẫn, dây chuyền…

Như vậy, chỉ trong khoảng 2 tháng kể từ khi tiết lộ sẽ tham gia các mảng bán lẻ trái ngành, Thế Giới Di Động đã nhanh chóng biến kế hoạch thành hiện thực và thể hiện rõ quyết tâm giành phần lớn trong miếng bánh bán lẻ.

Xu hướng tất yếu

Việc mở rộng đa ngành của Thế Giới Di Động là một tất yếu khi tập đoàn này theo đuổi tăng trưởng trong bối cảnh mặt hàng công nghệ bão hoà và chuỗi Bách Hóa Xanh chưa đủ năng lực đóng góp doanh thu chủ đạo.

Số liệu kinh doanh 11 tháng 2021 của MWG cho hay, tuy chuỗi Thế giới Di động và Điện máy Xanh (ĐMX) đóng góp chính trong tổng doanh thu nhưng mức tăng trưởng không cao, chỉ 5% so với cùng kỳ. Trong khi đó, mục tiêu tăng trưởng hàng năm của MWG là hai con số. Điển hình, MWG dự tính trình cổ đông kế hoạch doanh thu năm 2022 là 140,000 tỷ đồng còn lợi nhuận sau thuế là 6,350 tỷ đồng, tương đương mức tăng 12% về doanh thu và 34% về lợi nhuận sau thuế so với kế hoạch 2021. Vì thế, MWG phải liên tục tìm kiếm các động lực tăng trưởng mới

Trước khi lập 5 chuỗi mới, tháng 9/2021, MWG đã ra mắt chuỗi cửa hàng ủy quyền của Apple với tên gọi Topzone. Theo đánh giá của CTCK VNDS, với thị phần bán các sản phẩm Apple của MWG chỉ chiếm khoảng 23%, chuỗi Topzone có thể giúp MWG mở rộng thêm. Ngoài ra, quy định mới siết chặt sản phẩm xách tay và chính sách bảo hành mới của Apple chỉ áp dụng cho các sản phẩm chính hãng tại Việt Nam hữa hẹn giúp doanh thu của MWG trong kinh doanh các sản phẩm Apple sẽ thêm động lực tăng trưởng giai đoạn 2022-2023.

Các công ty chứng khoán cũng bày tỏ lạc quan khi nhìn về những chuỗi cửa hàng mới của MWG, với niềm tin AVAJi, AVAKids, AVASport, AVAFashion, AVACycle… sẽ đạt sự thành công tương tự như cách MWG đã thành công ở chuỗi BHX, chuỗi Điện Máy Xanh Supermini (DMS) và mảng B2B.

Thực tế, chiến lược mở rộng, lấn sân nhiều ngành của MWG cũng có nét tương đồng với một số công ty hoạt động trong ngành phân phối như Digiworld. Ông Đoàn Hồng Việt, Tổng giám đốc Digiworld chia sẻ, với mô hình cung cấp dịch vụ phát triển thị trường (MES), Digiworld đã mở rộng sang bán thiết bị gia dụng và có thể bán từ cây kim cuộn chỉ đến xe hơi, tàu thủy. Nghĩa là Digiworld sẽ có thể mở rộng không giới hạn phạm vi hoạt động của mình. Tuy nhiên, ông Việt lưu ý, dạng mở rộng của Digiworld không phải là đa ngành. Công ty không chuyển hướng theo kiểu lấn sân sang bất động sản, chứng khoán mà chỉ mở rộng trên nền tảng đã xây dựng và trong mô hình MES đã thiết lập.

Tương tự, dù MWG mở thêm nhiều chuỗi cửa hàng, với các sản phẩm khác nhau thì MWG trước sau vẫn là một nhà bán lẻ. Ông Nguyễn Đức Tài, Chủ tịch HĐQT MWG từng chia sẻ về câu chuyện tìm ra công thức để nhân rộng. Tuy nhiên, với mỗi chuỗi mở rộng, các công ty sẽ có những điều chỉnh nhất định về tổ chức,vận hành và bán hàng riêng. Do đó, giới đầu tư đã ít nhiều lo ngại cho chi phí và các khoản thua lỗ có thể xảy đến.

Theo ông Đoàn Hồng Việt, quan trọng là doanh nghiệp có biết cách quản trị rủi ro hay không để khi rủi ro đến thì không ảnh hưởng đến cục diện chung. Ngoài ra, nếu người chủ biết tìm kiếm cộng sự và chia việc phù hợp, gánh nặng đã giám đáng kể.

Rõ ràng, câu chuyện mở rộng ở các doanh nghiệp không phải là “phình to” bao nhiêu mà la mở rộng như thế nào? Từ đây, giới đầu tư có thể xem xét để biết hoạt động mở rộng của các doanh nghiệp là đáng mừng hay đáng lo?

Vincom Retail báo lãi 1,315 tỷ đồng trong năm 2021

30-01-2022 11:00:00+07:00

30/01/2022 11:00 [ 2](javascript:void(0))

CTCP Vincom Retail (HOSE: VRE) công bố BCTC hợp nhất quý 4/2021 với doanh thu đạt 1,367 tỷ đồng và lợi nhuận sau thuế 122 tỷ đồng.

Trong quý 4/2021, các trung tâm thương mại (TTTM) Vincom trên toàn quốc đã hoạt động trở lại nhưng Vincom Retail tiếp tục hỗ trợ các gian hàng và ngành hàng buộc phải đóng cửa do nằm trong vùng rủi ro cao, hoặc hoạt động với điều kiện hạn chế. Gói hỗ trợ dưới dạng miễn, giảm tiền thuê trong quý 4 là 766 tỷ đồng và cả năm 2021 là 2,115 tỷ đồng là nguyên nhân chính khiến lợi nhuận sau thuế của Vincom Retail thấp hơn kế hoạch đề ra đầu năm.

Theo đó, Vincom Retail ghi nhận kết quả kinh doanh với doanh thu thuần hợp nhất đạt 1,367 tỷ đồng, giảm 58% so cùng kỳ. Trong đó, doanh thu cho thuê bất động sản đầu tư và cung cấp các dịch vụ liên quan đạt 891 tỷ đồng, giảm 46% so với cùng kỳ năm 2020 và tăng 22.4% so với quý 3; doanh thu chuyển nhượng bất động sản đạt 436 tỷ đồng, giảm 72% so với cùng kỳ năm trước nhưng tăng gần 22 lần so với trước nhờ bàn giao các căn nhà phố thương mại chưa thể bàn giao trong giai đoạn giãn cách xã hội. Kết thúc quý 4, lợi nhuận sau thuế của Công ty đạt 122 tỷ đồng.

Tính chung cả năm 2021, Vincom Retail ghi nhận tổng doanh thu thuần hợp nhất 5,891 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế đạt 1,315 tỷ đồng.

Dự kiến trong năm 2022, Vincom Retail sẽ khai trương 3 TTTM là Vincom Mega Mall Smart City (Hà Nội), Vincom Plaza Bạc Liêu và Vincom Plaza Mỹ Tho (Tiền Giang) với tổng diện tích 95,000 m2

Tiết giảm chi phí, lãi ròng quý 4 của Bóng đèn Điện Quang tăng 46%

30-01-2022 08:00:00+07:00

30/01/2022 08:00 [ 0](javascript:void(0))

Mặc dù doanh thu giảm 13% trong quý 4/2021 nhưng lợi nhuận ròng của CTCP Bóng đèn Điện Quang (HOSE: DQC) vẫn tăng 46% so cùng kỳ, lên hơn 13 tỷ đồng.

Theo giải trình của DQC, lợi nhuận ròng quý 4/2021 tăng so cùng kỳ chủ yếu do Công ty tiết giảm chi phí như giá vốn, chi phí bán hàng và quản lý doanh nghiệp. Đồng thời Công ty cũng hoàn nhập chi phí lãi vay gần 2 tỷ đồng.

Ngoài ra, đóng góp cho sự tăng trưởng lợi nhuận của DQC còn đến từ lãi công ty liên doanh, liên kết gần 14 tỷ đồng, gấp 3.8 lần cùng kỳ.

Tính chung cả năm 2021, DQC thu được gần 24 tỷ đồng lợi nhuận ròng, tăng 49% so với cùng kỳ năm trước, dù doanh thu thuần giảm 22% so cùng kỳ, còn gần 734 tỷ đồng. Nguyên nhân chính do các chi phí được tiết giảm và lãi từ liên doanh, liên kết tăng mạnh.

Năm 2021, DQC lên kế hoạch doanh thu thuần hợp nhất đạt 1,000 tỷ đồng và lãi trước thuế 30 tỷ đồng. Các chỉ tiêu này lần lượt tăng 6% và 34% so với thực hiện năm 2020.

So với kế hoạch đề ra, DQC chỉ thực hiện được 73% chỉ tiêu doanh thu và 89% mục tiêu lợi nhuận cả năm.

Tính đến cuối năm 2021, tổng tài sản của DQC suýt soát so với đầu năm, đạt gần 1,436 tỷ đồng. Trong đó, phần lớn nằm ở các khoản phải thu ngắn hạn và hàng tồn kho.

Cuối kỳ, khoản phải trả người bán ngắn hạn chiếm 21% tổng nợ phải trả, giảm 24% so với đầu năm, còn gần 101 tỷ đồng. Dư nợ vay ngắn hạn tăng 47% so với đầu năm, lên hơn 90 tỷ đồng, trong khi nợ vay dài hạn giảm nhẹ 4%, còn gần 48 tỷ đồn

Tái bảo hiểm PVI tăng 36% lãi ròng trong quý 4/2021

29-01-2022 22:00:00+07:00

29/01/2022 22:00 [ 0](javascript:void(0))

Doanh thu phí nhận tái bảo hiểm giảm 35% trong quý 4/2021, nhưng lợi nhuận ròng của Tổng CTCP Tái bảo hiểm PVI (HNX: PRE) vẫn tăng 36% so với cùng kỳ năm trước, lên gần 55 tỷ đồng.

Kết thúc quý 4/2021, PRE có doanh thu phí nhận tái bảo hiểm giảm 35% so với cùng kỳ, còn hơn 207 tỷ đồng. Dù vậy, tổng chi phí bảo hiểm giảm nhanh hơn doanh thu giúp lợi nhuận gộp kinh doanh bảo hiểm gấp 3.2 lần cùng kỳ, đạt hơn 34 tỷ đồng

Ngoài ra, lợi nhuận từ hoạt động tài chính tăng nhẹ 3%, đạt gần 53 tỷ đồng nên kết quả PRE thu về gần 55 tỷ đồng lợi nhuận ròng, tăng 36% so cùng kỳ.

Lũy kế cả năm 2021, lợi nhuận ròng của PRE đi ngang so với năm trước, đạt gần 146 tỷ đồng chủ yếu do lợi nhuận kinh doanh bảo hiểm chỉ tăng 5% và lợi hoạt động tài chính tăng 3%, trong khi chi phí quản lý tăng đến 13%.

Năm 2021, PRE dự kiến đạt 1,769 tỷ đồng doanh thu và hơn 170 tỷ đồng lãi trước thuế, lần lượt giảm 7% và 6% so với thực hiện năm trước. Như vậy, Công ty đã vượt 7% mục tiêu lợi nhuận cả năm.

Tính đến cuối năm 2021, tổng tài sản của PRE tăng 11% so với đầu năm, đạt 5,026 tỷ đồng. Trong đó, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản là tài sản tái bảo hiếm, giá gần 2,376 tỷ đồng, tăng 16% so với đầu năm.

Nợ phải trả tăng 15% so với đầu năm, lên mức hơn 4,131 tỷ đồng, chủ yếu do dự phòng nghiệp vụ tăng 15%, lên gần 3,355 tỷ đồng

Thoái vốn FE Credit, Ngân hàng mẹ VPBank báo lãi trước thuế 2021 gần 38,000 tỷ đồng

29-01-2022 17:00:00+07:00

29/01/2022 17:00 [ 3](javascript:void(0))

Sau khi thoái vốn tại FE Credit, Ngân hàng mẹ VPBank báo lãi trước thuế năm 2021 gấp 4 lần năm trước với hơn 37,963 tỷ đồng.

Theo BCTC riêng quý 4/2021, Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank, HOSE: VPB) công bố lợi nhuận trước thuế Ngân hàng mẹ năm 2021 đạt hơn 37,963 tỷ đồng, gấp 4 lần năm trước.

Nguyên nhân chủ yếu nhờ thu nhập từ góp vốn mua cổ phần riêng lẻ tăng 20,349 tỷ đồng nhờ Ngân hàng đã hoàn tất giao dịch chuyển nhượng 50% vốn tại công ty con là FE Credit (VPB SMBC FC). Do VPB SMBC FC vẫn là công ty con của Ngân hàng theo quy định của pháp luật nên thu nhập từ giao dịch chuyển nhượng công ty con này không ghi nhận trên Báo cáo kết quả kinh doanh hợp nhất theo quy định về hợp nhất BCTC.

Bên cạnh đó, Ngân hàng mẹ còn ghi nhận lợi nhuận từ các công ty con chuyển về gồm VPB SMBC FC và VPB AMC tổng cộng hơn 3,600 tỷ đồng.

Nguồn: BCTC riêng lẻ quý 4/2021 của VPB

Trên BCTC hợp nhất, VPBank ghi nhận gần 34,349 tỷ đồng thu nhập lãi thuần, tăng 6% so với năm trước.

Hoạt động dịch vụ thu về khoản lãi hơn 4,059 tỷ đồng, tăng 21%, chủ yếu nhờ tăng thu hoạt động dịch vụ và bảo hiểm, đồng thời giảm chi hoa hồng môi giới.

Lãi từ mua bán chứng khoán đầu tư gấp 2.7 lần, thu về 3,150 tỷ đồng. Lãi từ hoạt động khác tăng 26%, ghi nhận 2,808 tỷ đồng nhờ tăng thu từ hoạt động khác, thu từ các công cụ tài chính phái sinh khác và thu từ nợ đã xử lý rủi ro.

Năm nay, VPBank dành ra hơn 19,002 tỷ đồng để trích lập dự phòng rủi ro tín dụng (tăng 30%), do đó Ngân hàng báo lãi trước thuế hợp nhất tăng 12%, đạt 14,580 tỷ đồng.

Nếu so với kế hoạch lợi nhuận trước thuế 16,654 tỷ đồng được đề ra cho cả năm 2021, VPBank đã thực hiện được 88% chỉ tiêu.

Kết quả kinh doanh hợp nhất quý 4/2021 của VPB. Đvt: Tỷ đồng

Nguồn: BCTC hợp nhất quý 4/2021 của VPB

Tính đến cuối năm 2021, tổng tài sản của VPBank tăng 31% so với đầu năm, lên mức 547,626 tỷ đồng. Tiền gửi tại NHNN tăng 88% (10,880 tỷ đồng), tiền gửi tại các TCTD khác tăng 75% (40,329 tỷ đồng), cho vay các TCTD khác gấp 3 lần (16,858 tỷ đồng)…

Về nguồn vốn, tiền gửi khách hàng tăng 4% so với đầu năm, lên mức 241,837 tỷ đồng. Phát hành giấy tờ có giá tăng 29%, ghi nhận 81,296 tỷ đồng chủ yếu là tăng ở kỳ hạn dưới 12 tháng (gấp 2.2 lần) và từ 12 tháng đến dưới 5 năm (+20%).

Một số chỉ tiêu tài chính của VPB tính đến 31/12/2021. Đvt: Tỷ đồng

Nguồn: BCTC hợp nhất quý 4/2021 của VPB

Về chất lượng nợ vay, tổng nợ xấu tại ngày 31/12/2021 chiếm 15,887 tỷ đồng trong tổng dư nợ. Nợ nghi ngờ tăng đáng kể, ghi nhận hơn 8,446 tỷ đồng nhưng nợ có khả năng mất vốn giảm đi một nửa. Tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay tăng từ 3.41% lên 4.47%.

Chất lượng nợ vay của VPB tính đến 31/12/2021. Đvt: Tỷ đồng

Nguồn: BCTC hợp nhất quý 4/2021 của VPB

Tính riêng trên Ngân hàng mẹ, tổng nợ xấu tại thời điểm cuối năm đi ngang, ghi nhận hơn 5,630 tỷ đồng. Tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay giảm từ 2.52% đầu năm xuống còn 2.01%

Trích lập dự phòng gấp 3 lần, lãi ròng quý 4/2021 của EVNFinance tăng 23%

02-02-2022 09:15:00+07:00

02/02/2022 09:15 [ 0](javascript:void(0))

Kết thúc quý 4/2021, Công ty Tài chính Cổ phần Điện lực (EVNFinance, HOSE: EVF) đạt gần 93 tỷ đồng lãi ròng, tăng 23% so cùng kỳ. Nợ xấu tăng 47% so với đầu năm, lên gần 437 tỷ đồng.

Trong quý 3, mặc dù tăng trích lập dự phòng lên 190 tỷ đồng, gấp 3.3 lần cùng kỳ, nhưng lợi nhuận ròng của EVF vẫn tăng 23%, đạt gần 93 tỷ đồng.

Nguyên nhân chủ yếu là nhờ nguồn thu chính và thu nhập ngoài lãi tăng cao. Trong đó, thu nhập lãi thuần tăng 10% so cùng kỳ, lên hơn 211 tỷ đổng và lãi từ hoạt động khác gấp 14.4 lần cùng kỳ, đạt hơn 136 tỷ đồng.

Lũy kế cả năm 2021, EVF lãi ròng hơn 330 tỷ đồng, tăng 45% so cùng kỳ, chủ yếu nhờ thu nhập lãi thuần tăng 10%, hoạt động mua bán chứng khoán đầu tư có lãi hơn 93 tỷ đồng, gấp 5.3 lần, lợi nhuận từ hoạt động khác hơn 242 tỷ đồng,gấp 2.6 lần cùng kỳ và thu nhập từ góp vốn mua cổ phần (8 tỷ đồng) - gấp 4.29 lần cùng kỳ.

Năm 2021, EVF đặt mục tiêu lợi nhuận trước thuế đạt 320 tỷ đồng, tăng 12% so với năm 2020. So với kế hoạch, EVF đã vượt 28% mục tiêu lợi nhuận cả năm.

Tính đến cuối năm 2021, tổng tài sản của EVF ghi nhận gần 32,387 tỷ đồng, tăng 12% so với đầu năm. Trong đó, cho vay khách hàng tăng 40%, đạt gần 16,850 tỷ đồng.

Về nguồn vốn huy động, tiền gửi của khách hàng giảm 33% so với đầu năm, còn gần 4,538 tỷ đồng. Đáng chú ý, phát hành giấy tờ có giá gấp 12.12 lần đầu năm, lên mức 6,060 tỷ đồng.

Xét về chất lượng nợ vay, nợ xấu của EVF tại thời điểm cuối quý 4/2021 tăng 47% so với đầu năm, lên mức gần 437 tỷ đồng. Trong đó, nợ dưới tiêu chuẩn (nợ nhóm 3) và nợ nghi ngờ (nợ nhóm 4) lần lượt gấp 4 lần và 13.8 lần đầu năm, Trái lại nợ có khả năng mất vốn (nợ nhóm 5) giảm 57%. Vì vậy, tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ cho vay khách hàng tăng từ 2.46% lên 2.59%

Sacombank vượt 10% kế hoạch lãi trước thuế 2021, nợ xấu cải thiện

01-02-2022 14:30:00+07:00

01/02/2022 14:30 [ 4](javascript:void(0))

Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank, HOSE: STB) báo lãi trước thuế năm 2021 hơn 4,400 tỷ đồng, tăng 32% so với năm trước, vượt 10% kế hoạch. Nợ xấu cuối năm cải thiện so với đầu năm.

Năm 2021, nguồn thu chính của Sacombank tăng 4% so vớ năm trước, thu về hơn 11,964 tỷ đồng.

Một số nguồn thu phi tín dụng cũng tăng trưởng như lãi từ dịch vụ (+16%), lãi từ mua bán chứng khoán đầu tư (+74%).

Ở chiều ngược lại, lãi từ kinh doanh ngoại hối (-9%) và lãi từ hoạt động khác (-59%) sụt giảm.

Trong năm, Sacombank tiết giảm chi phí hoạt động 10%, chỉ còn hơn 9,829 tỷ đồng. Thêm vào đó chi phí dự phòng rủi ro tín dụng tăng 14%, trích ra hơn 3,475 tỷ đồng. Do đó, Ngân hàng báo lãi trước thuế đạt hơn 4,400 tỷ đồng, tăng 32% so với năm trước.

So với kế hoạch 4,000 tỷ đồng lãi trước thuế đề ra cho năm 2021, Sacombank đã vượt 10% chỉ tiêu.

Kết quả kinh doanh hợp nhất quý 4/2021 của STB. Đvt: Tỷ đồng

Nguồn: BCTC hợp nhất quý 4/2021 của STB

Tính đến 31/12/2021, tổng tài sản Ngân hàng tăng 6% so với đầu năm, lên mức 521,196 tỷ đồng. Tiền gửi tại NHNN tăng 21% (12,169 tỷ đồng), tiền gửi tại các TCTD khác giảm đến 56% (còn 7,678 tỷ đồng), cho vay khách hàng tăng 14% (387,929 tỷ đồng). Tiền gửi khách hàng xấp xỉ đầu năm ở mức 427,386 tỷ đồng.

Một số chỉ tiêu tài chính của STB tính đến 31/12/2021. Đvt: Tỷ đồng

Nguồn: BCTC hợp nhất quý 4/2021 của STB

Chất lượng nợ vay Sacombank tại thời điểm cuối quý 4 có phần cải thiện hơn so với đầu năm, tổng nợ xấu chỉ còn 5,721 tỷ đồng. Trong đó, nợ nghi ngờ giảm mạnh nhất. Kết quả, kéo tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay từ 1.7% xuống còn 1.47%.

Chất lượng nợ vay của STB tính đến 31/12/2021. Đvt: Tỷ đồng

Nguồn: BCTC hợp nhất quý 4/2021 của STB

Vinhomes báo lãi hơn 39,000 tỷ năm 2021, EPS đạt 9,060 đồng

01-02-2022 09:00:00+07:00

01/02/2022 09:00 [ 1](javascript:void(0))

Nhờ hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao, CTCP Vinhomes (HOSE: VHM) lãi ròng hơn 39 ngàn tỷ đồng trong năm 2021, cao nhất kể từ lúc niêm yết đến nay.

Cụ thể, doanh thu thuần VHM trong năm 2021 đạt hơn 85 ngàn tỷ đồng, tăng 19% so với năm 2020. Cộng với việc giá vốn được tiết giảm 20%, lãi gộp của Công ty được đẩy lên hơn 48 ngàn tỷ đồng, tăng 87%.

Mặt khác, do giảm thu nhập từ chuyển nhượng các khoản đầu tư vào các công ty con đang sở hữu một phần dự án bất động sản, doanh thu tài chính của VHM chỉ ghi nhận gần 8 ngàn tỷ đồng (giảm 61%).

Dù vậy, VHM vẫn lãi ròng hơn 39 ngàn tỷ đồng trong năm 2021, tăng 43% so với năm 2020. Thu nhập trên mỗi cổ phần (EPS) trong năm 2021 đạt 9,060 đồng.

So với kế hoạch doanh thu 90 ngàn tỷ đồng và lãi sau thuế 35 ngàn tỷ đồng, VHM lần lượt vượt mục tiêu doanh thu hơn 3% và mục tiêu lợi nhuận 12%.

Riêng trong quý 4/2021, doanh thu thuần và lợi nhuận ròng của VHM lần lượt đạt hơn 23 ngàn tỷ đồng và gần 12 ngàn tỷ đồng, tăng 6% và 8% so với cùng kỳ.

Kết quả kinh doanh quý 4 và lũy kế 2021 của VHM. Đvt: Tỷ đồng

Nguồn: BCTC hợp nhất quý 4/2021 của VHM

Tổng tài sản của của VHM tại thời điểm 31/12/2021 ghi nhận hơn 230 ngàn tỷ đồng, tăng 7% so với đầu năm. Trong đó, chi phí liên quan đến 3 dự án là Vinhomes Long Beach Cần Giờ, Khu đô thị số 1 và số 2 khu vực TP.HCM tăng 38%, lên gần 45 ngàn tỷ đồng.

Mặt khác, các chi phí tồn kho liên quan đến 3 dự án Vinhomes Grand Park, Vinhomes Smart City và Vinhomes Ocean Park và một số dự án khác giảm 35%, còn gần 26 ngàn tỷ đồng.

Về nợ, tổng nợ vay của Công ty giảm 20%, còn gần 20 ngàn tỷ đồng, do vay nợ tài chính ngắn hạn giảm đến 98%. Ngoài ra, khoản mục người mua trả tiền trước ngắn hạn chỉ còn gần 9 ngàn tỷ đồng, giảm 67%

FLC báo lãi trước thuế hơn 160 tỷ đồng năm 2021

31-01-2022 20:22:49+07:00

31/01/2022 20:22 [ 0](javascript:void(0))

Không còn hợp nhất báo cáo của Bamboo Airways cùng việc chịu ảnh hưởng của dịch Covid-19, doanh thu và lợi nhuận năm 2021 của CTCP Tập đoàn FLC (HOSE: FLC) giảm mạnh so với năm liền trước.

Kết quả kinh doanh quý 4 và cả năm 2021 của FLC

Nguồn: BCTC hợp nhất quý 4/2021 của FLC

FLC vừa công bố báo cáo tài chính quý 4/2021 hợp nhất với kết quả kinh doanh sụt giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước nhưng đã cho thấy dấu hiệu phục hồi sau quý 3 đầy khó khăn.

Cụ thể, trong quý cuối cùng của năm 2021, khi các hoạt động kinh tế xã hội dần mở cửa trở lại sau thời gian giãn phong tỏa phòng chống dịch Covid-19, FLC đã ghi nhận về 1,167 tỷ đồng doanh thu thuần từ hoạt động bán hàng và cung cấp dịch vụ. So với cùng kỳ năm 2020, số thu này vẫn thấp hơn 67%.

Nguyên nhân chính dẫn tới doanh thu giảm mạnh trong quý vừa qua là do FLC không còn là công ty mẹ của Công ty CP Hàng không Tre Việt (Bamboo Airways), nên không còn được hợp nhất báo cáo tài chính của hãng hàng không này, ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu mảng dịch vụ.

Trong giai đoạn không còn hợp nhất kết quả kinh doanh ở mảng hàng không, FLC lại thu về khoản lãi gộp 310 tỷ đồng, trong khi cùng kỳ lỗ 596 tỷ.

Theo thuyết minh báo cáo tài chính, giá vốn hàng bán của FLC giảm ở cả 3 mảng kinh doanh chính gồm hàng hóa đã bán, thành phẩm; bất động sản và dịch vụ đã cung cấp. Tuy nhiên, mức giảm lớn nhất vẫn đến ở mảng dịch vụ. Đây cũng là nguyên nhân chính giúp tập đoàn có lãi gộp dương trở lại trong quý 4/2021.

Tuy nhiên, trong khi hoạt động kinh doanh chính cải thiện tích cực, doanh thu hoạt động tài chính của FLC lại giảm gần 88% trong quý vừa qua, mang về 444 tỷ đồng, trong khi kỳ trước đóng góp tới 3,689 tỷ.

Chỉ tiêu này cùng với chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp tăng cao và khoản lỗ trong công ty liên doanh liên kết đã ảnh hưởng tới kết quả lợi nhuận trước và sau thuế của FLC.

Kết quả, lãi trước thuế quý 4 của FLC đạt hơn 160 tỷ đồng, lãi ròng chỉ là gần 11 tỷ đồng, giảm 99%. Tuy vậy, so với quý liền trước, kết quả lợi nhuận này của FLC đã tăng tới 160%.

Lũy kế cả năm 2021, FLC đạt 6,772 tỷ đồng doanh thu thuần, giảm gần một nửa so với năm 2020. Lãi ròng cả năm giảm tương ứng gần 73%, đạt gần 85 tỷ đồng. Đây là năm thứ 2 liên tiếp Công ty ghi nhận kết quả lợi nhuận đi lùi, cũng là năm có mức lãi thấp nhất kể từ 2013 đến nay.

DCM lãi ròng trên ngàn tỷ đồng trong quý 4

31-01-2022 16:00:00+07:00

31/01/2022 16:00 [ 1](javascript:void(0))

Giá bán phân bón tăng mạnh trong quý 4/2021 giúp CTCP Phân bón Dầu khí Cà Mau (HOSE: DCM) đem về 3,907 tỷ đồng doanh thu thuần và 1,095 tỷ đồng lãi ròng, lần lượt tăng 72% và gấp 5.2 lần cùng kỳ.

Quý 4/2021, DCM ghi nhận doanh thu bán hàng của Công ty mẹ tăng hơn 67% so cùng kỳ, do tình trạng khan hiếm nguồn phân bón trên toàn cầu, kết hợp với chính sách hạn chế xuất khẩu của các quốc gia như Nga, Trung Quốc dẫn đến giá phân bón trong nước tăng mạnh. Giá bán bình quân mặt hàng phân bón Ure TM quý 4/2021 tăng hơn 111% cùng kỳ.

Các yếu tố chi phí sản xuất, chi phí bán hàng và quản lý đều tăng do biến động giá nguyên liệu đầu vào, kết hợp với tình hình dịch bệnh kéo dài ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Tuy nhiên, nhờ diễn biến giá phân bón thuận lợi, lãi ròng của Công ty mẹ và lãi ròng hợp nhất tăng tương ứng 443% và 422% (gấp hơn 5 lần) cùng kỳ.

Kết quả kinh doanh hợp nhất quý 4 và năm 2021 của DCM. Đvt: Tỷ đồng

Nguồn: BCTC hợp nhất quý 4/2021 của DCM

Năm 2021, nhà máy Đạm Cà Mau đã vận hành với công suất 110%. Công ty đem về doanh thu thuần 9,870 tỷ đồng, tăng 31% so với 2020, trong đó nguồn thu từ bán ure chiếm xấp xỉ 72%. Lãi ròng năm 2021 tăng gấp 3 lần, lên 1,918 tỷ đồng. Đây là các mức doanh thu lợi nhuận cao nhất mà DCM đạt được trong 10 năm hoạt động.

Tính đến 31/12/2021, DCM đang sở hữu tổng tài sản trị giá 10.8 ngàn tỷ đồng, tăng 25% so đầu năm. Đáng chú ý, Công ty đã tăng gửi tiền ngân hàng ngắn hạn thêm hơn 2 ngàn tỷ đồng tương ứng tăng 89%, lên 4,362 tỷ đồng. Hàng tồn kho cũng tăng gấp 2.3 lần, lên 1,936 tỷ đồng tại cuối tháng 12.

Bước sang 2022, DCM đưa ra kế hoạch sản xuất kinh doanh với sản lượng 860.1 ngàn tấn ure quy đổi, 80 ngàn tấn NPK; tổng doanh thu và lãi sau thuế dự kiến ở mức 9,017 tỷ dồng và 512 tỷ đồng.

Từ 2023 trở đi, chi phí sản xuất ure của DCM sẽ giảm đáng kể khi nhà máy khấu hao hết

Vietbank: Lãi trước thuế 2021 tăng 58%, tỷ lệ nợ xấu vượt 3.65%

31-01-2022 15:00:00+07:00

31/01/2022 15:00 [ 4](javascript:void(0))

Ngân hàng TMCP Việt Nam Thương Tín (Vietbank, UPCoM: VBB) báo lãi trước thuế năm 2021 đạt gần 636 tỷ đồng, tăng 58% so với năm trước dù chi phí dự phòng tăng gấp 10 lần nhờ nguồn thu chính tăng mạnh. Tỷ lệ nợ xấu/dư nợ tăng từ 1.75% lên 3.65%.

Hoạt động chính là động lực cho tăng trưởng của Vietbank trong năm 2021. Thu nhập lãi thuần gấp 2.6 lần năm trước, ghi nhận hơn 1,486 tỷ đồng chủ yếu nhờ tăng thu nhập lãi cho vay (+14%), thu lãi từ chứng khoán đầu tư (+39%).

Hoạt động dịch vụ tăng 56% khi đem về khoản lãi gần 95 tỷ đồng, nhờ thu từ dịch vụ thanh toán hơn 99 tỷ đồng (+86%).

Ở chiều ngược lại, lãi từ hoạt động kinh doanh ngoại hối lại giảm 69%, chỉ còn 12 tỷ đồng do tăng các khoản chi công cụ phái sinh tiền tệ.

Năm nay, Vietbank dành ra đến 483 tỷ đồng để trích dự phòng rủi ro tín dụng, gấp 10 lần năm trước. mặc dù vậy, nhờ lợi nhuận thuần đạt hơn 1,118 tỷ đồng, do đó Ngân hàng báo lãi trước thuế tăng 58%, ghi nhận gần 636 tỷ đồng.

Nếu so với kế hoạch kinh doanh “tối thiểu”, Vietbank đã hoàn thành kế hoạch 390 tỷ đồng lãi trước thuế của năm 2021 ngay từ quý 3.

Còn nếu so với con số 1,100 tỷ đồng lãi trước thuế của kế hoạch “phấn đấu”, Vietbank chỉ mới thực hiện được 58%.

Kết quả kinh doanh hợp nhất quý 4/2021 của VBB. Đvt: Tỷ đồng

Nguồn: BCTC hợp nhất quý 4/2021 của VBB

Tính đến 31/12/2021, tổng tài sản Vietbank tăng 13% so với đầu năm, lên mức 103,779 tỷ đồng. Tiền gửi tại NHNN gấp đôi đầu năm (4,636 tỷ đồng), cho vay khách hàng tăng 13% (50,530 tỷ đồng)…

Về nguồn vốn, tiền gửi khách hàng chỉ tăng nhẹ 3% lên mức 66,755 tỷ đồng. Phát hành giấy tờ có giá tăng đến 53%, ghi nhận hơn 7,635 tỷ đồng.

Một số chỉ tiêu tài chính của VBB tính đến 31/12/2021. Đvt: Tỷ đồng

Nguồn: BCTC hợp nhất quý 4/2021 của VBB

Chất lượng nợ vay góp một điểm tối trong kết quả kinh doanh năm nay của Vietbank khi tổng nợ xấu tại ngày 31/12/2021 gấp 2.4 lần đầu năm, vượt hơn 1,845 tỷ đồng. Tất cả các nhóm nợ xấu đều tăng mạnh. Kết quả đẩy tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay tăng mạnh từ 1.75% lên 3.65%.

Chất lượng nợ vay của VBB tính đến 31/12/2021. Đvt: Tỷ đồng

Nguồn: BCTC hợp nhất quý 4/2021 của VBB

Lãi ròng của TOS giảm 31% trong quý 4/2021

31-01-2022 14:00:00+07:00

31/01/2022 14:00 [ 0](javascript:void(0))

Giá vốn cung cấp dịch vụ ngoài khơi tăng cao hơn doanh thu là nguyên nhân chính khiến lợi nhuận ròng quý 4/2021 của CTCP Dịch vụ biển Tân Cảng (UPCoM: TOS) giảm 31% so cùng kỳ, còn gần 21 tỷ đồng.

Quý 4, TOS đạt gần 337 tỷ đồng doanh thu thuần, tăng 25% so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, lợi nhuận từ hoạt động tài chính, lãi từ công ty liên doanh, liên kết và lợi nhuận từ hoạt động khác đều tăng mạnh.

Tuy nhiên, lợi nhuận ròng lại giảm 31%, còn gần 21 tỷ đồng chủ yếu giá vốn mảng kinh doanh chính là cung cấp dịch vụ ngoài khơi tăng cao hơn doanh thu.

Lũy kế cả năm 2021, TOS đạt 1,438 tỷ đồng doanh thu thuần và 152 tỷ đồng lợi nhuận ròng lần lượt tăng 9% và 10% so cùng kỳ.

Với lợi nhuận sau thuế của Công ty mẹ gần 131 tỷ đồng, TOS đã hoàn thành mục tiêu lợi nhuận cả năm.

Tính đến cuối năm 2021, tổng tài sản của TOS tăng 19% so với đầu năm, đạt gần 2,172 tỷ đồng. Trong đó, tiền và các khoản tương đương tiền gấp 2.7 lần đầu năm, đạt hơn 227 tỷ đồng.

Tổng các khoản phải thu chiếm 30% tổng tài sản, giá trị hơn 641 tỷ đồng, chủ yếu nằm ở khoản phải thu ngắn hạn từ các khách hàng hơn 461 tỷ đồng, tăng 11% so với đầu năm.

Nợ phải trả hơn 1,200 tỷ đồng, chiếm 55% tổng nguồn vốn. Trong đó, chủ yếu là dư nợ vay ngắn hạn gần 230 tỷ đồng và dư nợ vay dài hạn hơn 557 tỷ đồng, lần lượt tăng 10% và 11% so với đầu năm

Techcombank vượt 17% chỉ tiêu lãi trước thuế 2021

31-01-2022 14:00:00+07:00

31/01/2022 14:00 [ 1](javascript:void(0))

Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam (Techcombank, HOSE: TCB) báo lãi trước thuế năm 2021 tăng 47% so với năm trước, đạt hơn 23,238 tỷ đồng, nhờ tăng trưởng thu nhập chính và phi tín dụng. Nhưng nợ xấu lại tăng 77% so với đầu năm.

Nhìn chung cả năm 2021 Techcombank hoạt động kinh doanh đều khả quan hơn so với năm trước.

Nguồn thu chính giúp Ngân hàng thu về gần 26,699 tỷ đồng thu nhập lãi thuần, tăng 42%, nhờ tăng thu nhập từ lãi cho vay và thu nhập từ chứng khoán nợ.

Đáng chú ý, hoạt động dịch vụ cũng tăng mạnh 41%, đem về hơn 6,382 tỷ đồng tiền lãi, chủ yếu do tăng thu dịch vụ thanh toán và tiền mặt (+28%) và dịch vụ hợp tác bảo hiểm (+88%).

Lãi từ hoạt động kinh doanh ngoại hối hơn 231 tỷ đồng, trong khi năm trước chỉ lãi 745 triệu đồng nhờ giảm lỗ từ kinh doanh ngoại tệ giao ngay.

Trong năm, Techcombank chi ra gần 2,665 tỷ đồng để dự phòng rủi ro tín dụng, tuy nhiên khoản này chỉ xấp xỉ năm trước, do đó, Ngân hàng báo lãi trước thuế tăng 47%, đạt hơn 23,238 tỷ đồng.

Nếu so với kế hoạch 19,800 tỷ đồng được đặt ra cho cả năm 2021, Techcombank đã vượt 17% chỉ tiêu.

Kết quả kinh doanh hợp nhất quý 4/2021 của TCB. Đvt: Tỷ đồng

Nguồn: BCTC hợp nhất quý 4/2021 của TCB

Tính đến 31/12/2021, tổng tài sản Techcombank tăng đến 29% so với đầu năm, lên mức hơn 568,811 tỷ đồng. Tiền gửi tại NHNN giảm mạnh 52% (còn 4,908 tỷ đồng), tiền gửi tại các TCTD khác tăng 87% (39,519 tỷ đồng), cho TCTD khác vay gấp 4 lần (31,064 tỷ đồng), cho vay khách hàng tăng 25% (347,341 tỷ đồng). Tiền gửi khách hàng tăng 13% so với đầu năm, lên gần 314,752 tỷ đồng.

Một số chỉ tiêu tài chính của TCB tính đến 31/12/2021. Đvt: Tỷ đồng

Nguồn: BCTC hợp nhất quý 4/2021 của TCB

Chất lượng nợ vay của Techcombank tại thời điểm cuối quý 4/2021 lại đi lùi so với đầu năm khi tổng nợ xấu tăng đến 77%, chiếm đến 2,294 tỷ đồng. Trong đó, tăng mạnh nhất là nợ có khả năng mất vốn (gấp đôi). Kết quả này kéo tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay tăng từ 0.47% lên 0.66%.

Chất lượng nợ vay của TCB tính đến 31/12/2021. Đvt: Tỷ đồng

Nguồn: BCTC hợp nhất quý 4/2021 của TCB

Trong năm, Techcombank chi ra hơn 6,365 tỷ đồng để trả lương và phụ cấp cho nhân viên trên toàn hệ thống, tăng gần 24% so với năm 2020.

Với số lượng nhân sự bình quân 12,154 người, bình quân mỗi nhân viên Techcombank có thu nhập 44 triệu đồng/tháng, tăng 19% so với năm 2020. Trong đó, riêng tiền lương là 36 triệu đồng/tháng, tăng 20%.

Hàn Đông

BIDV: Lãi trước thuế 2021 tăng 51%, nợ xấu giảm 38%

31-01-2022 09:30:00+07:00

31/01/2022 09:30 [ 3](javascript:void(0))

Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt nam (BIDV: HOSE: BID) báo lãi trước thuế năm 2021 tăng 51% so với năm trước, đạt gần 13,602 tỷ đồng. Song song đó, nợ xấu cũng giảm 38% so với đầu năm.

Năm 2021 có thể nói là năm kinh doanh tăng trưởng của BIDV. Nguồn thu chính tăng 31% so với năm trước, đạt gần 46,818 tỷ đồng nhờ tiết giảm chi phí trả lãi.

Các nguồn thu ngoài lãi cũng tăng trưởng so với năm trước như lãi từ dịch vụ (+26%), lãi từ kinh doanh ngoại hối (+9%), lãi từ mua bán chứng khoán kinh doanh (+22%), lãi từ hoạt động khác (+19%).

Trong năm, BIDV trích ra hơn 29,432 tỷ đồng để dự phòng rủi ro tín dụng, tăng 26% so với năm trước, nhưng nhờ thu nhập tăng trưởng Ngân hàng báo lãi trước thuế tăng đến 51%, đạt gần 13,602 tỷ đồng.

So với kế hoạch cả năm 2021 đạt 13,000 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế, BIDV đã vượt gần 5% chỉ tiêu.

Kết quả kinh doanh hợp nhất quý 4/2021 của BID. Đvt: Tỷ đồng

Nguồn: BCTC hợp nhất quý 4/2021 của BID

Tính đến 31/12/2021, tổng tài sản BIDV đạt hơn 1.76 triệu tỷ đồng, tăng 16% so với đầu năm. Trong đó, tiền gửi tại NHNN tăng 39% (68,851 tỷ đồng), tiền gửi tại TCTD khác tăng 81% (112,042 tỷ đồng), cho vay khách hàng tăng 12% (1.35 triệu tỷ đồng).

Tiền gửi khách hàng cũng tăng 13% so với đầu năm, đạt hơn 1.38 triệu tỷ đồng. Phát hành giấy tờ có giá tăng đến 95%, đạt hơn 123,681 tỷ đồng chủ yếu tăng đột biến chứng chỉ tiền gửi dưới 12 tháng 45,984 tỷ đồng và trái phiếu từ 12 tháng đến dưới 5 năm gần 1,128 tỷ đồng.

Một số chỉ tiêu tài chính của BID tính đến 31/12/2021. Đvt: Tỷ đồng

Nguồn: BCTC hợp nhất quý 4/2021 của BID

Chất lượng nợ vay cũng góp thêm một điểm sáng cho BIDV khi tổng nợ xấu tại thời điểm cuối quý 4 giảm 38% so với đầu năm, chỉ còn 13,245 tỷ đồng. Chủ yếu giảm mạnh 58% ở nợ có khả năng mất vốn. Kết quả kéo tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay từ mức 1.76% xuống còn 0.98%.

Chất lượng nợ vay của BID tính đến 31/12/2021. Đvt: Tỷ đồng

Nguồn: BCTC hợp nhất quý 4/2021 của BID