TOPIC về các doanh nghiệp có BTCT quý 3/2021 tăng trưởng

50. DCM: Đạm Cà Mau lãi quý III gấp 3,7 lần cùng kỳ nhờ giá bán ure tăng 64%
Sản lượng tiêu thụ trong kỳ giảm khiến giá vốn giảm nhưng giá bán tăng 64% giúp biên lợi nhuận gộp tăng mạnh.

Đạm Cà Mau đạt lãi sau thuế 823 tỷ đồng, tăng 78% và vượt 300% kế hoạch năm.

Đạm Cà Mau (HoSE: DCM) công bố BCTC hợp nhất quý III với doanh thu giảm 10% xuống 1.812 tỷ đồng. Giá vốn giảm đến 30% nên lợi nhuận gộp đạt 583 tỷ đồng, tăng 127%. Biên lợi nhuận gộp tăng từ 13% lên 32%.

Doanh nghiệp cho biết sản lượng tiêu thụ trong kỳ giảm khiến giá vốn giảm 30%. Tuy nhiên, giá bán các sản phẩm phân bón cùng tăng cao, giá ure tăng hơn 64% khiến biên lợi nhuận gộp cải thiện.

Doanh thu tài chính tăng 22,5% lên 40 tỷ đồng, chi phí tài chính giảm 59% xuống 4 tỷ đồng. Chi phí bán hàng tăng 51%, chi phí quản lý tăng 12%.

Lợi nhuận sau thuế cổ đông công ty mẹ đạt 377 tỷ đồng, gấp 3,7 lần cùng kỳ năm trước. Lũy kế 9 tháng, doanh thu thuần tăng 14% lên 6.048 tỷ đồng; lãi ròng 819 tỷ đồng, tăng 78%. Doanh nghiệp vượt 300% kế hoạch lợi nhuận năm.

Đơn vị: tỷ đồng

Tại thời điểm cuối quý III, công ty phân bón có 3.412 tỷ đồng khoản đầu tư nắm giữ đến ngày đáo hạn, tăng thêm 1.100 tỷ đồng so với đầu năm. Hàng tồn kho tăng từ 834 tỷ lên 1.446 tỷ đồng, khoản phải thu tăng 23% lên 268 tỷ đồng.

Đạm Cà Mau giảm phân nửa nợ vay ngắn hạn xuống 340 tỷ đồng và giảm vay dài hạn từ 137 tỷ xuống 36 tỷ đồng.

3 Likes

51. BSR: Giá dầu thô tăng mạnh, BSR lãi ròng quý III gấp 3 lần
Quý III, lợi nhuận sau thuế cổ đông công ty mẹ 476 tỷ đồng, gấp gần 3 lần cùng kỳ.

Lũy kế 9 tháng, lãi sau thuế 3.998 tỷ đồng, cùng kỳ năm trước lỗ 4.094 tỷ đồng.

Kết quả thực hiện sau 9 tháng gấp 4,6 kế hoạch lợi nhuận cả năm.

Tại thời điểm cuối quý III, doanh nghiệp có hơn 15.390 tỷ đồng tiền gửi tại ngân hàng, chiếm 25% quy mô tài sản.

Lọc hóa dầu Bình Sơn (UPCoM: BSR) công bố BCTC hợp nhất quý III với doanh thu tăng 94% so với cùng kỳ năm trước lên 17.679 tỷ đồng. Giá vốn tăng ít hơn nên lãi gộp gấp đôi đạt 643 tỷ đồng.

Doanh thu tài chính tăng 118%, ở mức gần 291 tỷ nhờ lãi tiền gửi ngân hàng và chênh lệch tỷ giá. Chi phí tài chính, phần lớn là lãi vay, cũng tăng 57% lên 148 tỷ đồng. Các chi phí hoạt động cũng tăng mạnh trong kỳ. Cụ thể, chi phí bán hàng gấp đôi lên gần 208 tỷ, chủ yếu do tăng chi phí vận chuyển bán LPG và dịch vụ mua ngoài khác. Chi phí quản lý tăng từ 66 tỷ lên hơn 84 tỷ.

Theo đó, doanh nghiệp lọc dầu báo cáo lợi nhuận sau thuế cổ đông công ty mẹ 476 tỷ đồng, gấp gần 3 lần mức nền thấp tại quý III/2020. Lũy kế 9 tháng, doanh thu BSR đạt 66.587 tỷ đồng, tăng 63%; lãi sau thuế 3.998 tỷ đồng, cùng kỳ năm trước lỗ 4.094 tỷ đồng. Kết quả thực hiện sau 9 tháng đã gấp 4,6 kế hoạch lợi nhuận cả năm.

Nhờ lãi lớn trong 9 tháng đầu năm nay, lợi nhuận sau thuế chưa phân phối tăng từ 28 tỷ đồng lên 4.045 tỷ đồng. Dòng tiền thuần hoạt động kinh doanh trong 9 tháng đầu năm cũng tăng 27%, đạt gần 2.237 tỷ đồng.

Đơn vị: tỷ đồng

Theo giải trình, giá dầu thô 9 tháng đầu năm nay liên tục tăng mạnh. Giá Dated Brent liên tục tăng từ 49,9 USD/thùng bình quân tháng 12/2020 lên 74,6 USD/thùng bình quân tháng 9/2021. Trong khi đó, cùng kỳ năm trước giá dầu thô giảm mạnh từ 63,5 USD/thùng về 18,5 USD/thùng. Điều này tạo ra khoảng chênh lệch giá dầu thô và giá sản phẩm chính (xăng dầu) tốt hơn trong 3 quý đầu năm nay. Bên cạnh đó, công ty sản xuất hơn 1,4 triệu tấn sản phẩm và tiêu thụ 1,1 triệu tấn sản phẩm, lần lượt tăng 66% và 20% so với quý III năm ngoái. Những yếu tố trên đã góp phần tạo nên chênh lệch kết quả kinh doanh kỳ này so với cùng kỳ.

Tại thời điểm cuối quý III, tổng tài sản là 62.552 tỷ đồng, tăng 6.628 tỷ đồng so với đầu năm. Doanh nghiệp có hơn 15.390 tỷ đồng tiền gửi tại ngân hàng, chiếm 25% quy mô tài sản. Trong đó, gần 11.993 tỷ đồng là tiền gửi có kỳ hạn gốc không quá 3 tháng và hầu hết số còn lại kỳ hạn từ 3 đến 12 tháng.

Phải thu ngắn hạn giảm 23% xuống 5.991 tỷ đồng do khoản phải thu từ Petrolimex giảm 1.758 tỷ đồng về còn 1.269 tỷ đồng. Hàng tổn kho tăng gấp 2 lần so với đầu năm lên 17.694 tỷ đồng, phần lớn là các thành phẩm tồn kho 6.804 tỷ đồng (chiếm 38,4%).

Về nguồn vốn, nợ phải trả tăng từ 24.830 tỷ đồng đầu năm lên 27.495 tỷ cuối quý này. Phải trả người bán tăng thêm hơn 1.482 tỷ lên 8.486 tỷ đồng. Chi phí phải trả ngắn hạn gấp 7 lần so với đầu năm lên 2.078 tỷ đồng gồm hơn 317 tỷ lãi vay và 1.761 tỷ chi phí khác không thuyết minh.

Doanh nghiệp tăng nợ vay ngắn hạn từ 9.969 tỷ lên 10.585 tỷ đồng, tuy nhiên vay dài hạn giảm nhiều hơn từ 3.022 tỷ xuống 1.415 tỷ đồng. Các khoản vay lớn nhất của BSR là nợ ngắn hạn tại VietinBank (gần 3.000 tỷ đồng), BIDV (2.687 tỷ đồng) và nợ dài hạn tại VDB (1.415 tỷ đồng).

2 Likes

Bác chịu khó ngồi lọc thông tin ghê đó, ae hưởng lợi quá.:yum::yum::yum:

1 Likes

52. LDG: Quý III, LDG lãi gấp 3 lần nhờ giảm giá vốn và chi phí bán hàng
Doanh thu bán bất động sản giảm 83%, lãi vẫn gấp 3 lần lên gần 31 tỷ nhờ giảm giá vốn và chi phí mua ngoài.

Lũy kế 9 tháng, lãi sau thuế vẫn gấp 2,5 lên gần 32 tỷ đồng, tương đương 11% chỉ tiêu cả năm.

Đầu tư LDG (LDG Invesment - HoSE: LDG) công bố kết quả kinh doanh hợp nhất quý III với doanh thu từ bán bất động sản 124 tỷ đồng, giảm 83% so với cùng kỳ năm trước. Kỳ này không phát sinh nguồn thu từ cung cấp dịch vụ và môi giới bất động sản, mảng này đem về hơn 6 tỷ trong quý III/2020.

Giá vốn hàng bán giảm hơn 90% xuống 56 tỷ giúp biên lợi nhuận gộp cải thiện từ gần 24% lên 55%.

Lãi tiền gửi, cho vay đạt hơn 1,7 tỷ, trong khi cùng kỳ khiêm tốn với gần 28 triệu đồng. Song chi phí tài chính quý này gấp đôi lên gần 10 tỷ, riêng lãi vay ngân hàng là hơn 9,2 tỷ đồng. Ngược lại, chi phí bán hàng từ 135 tỷ về còn 1,4 tỷ đồng, chủ yếu do giảm chi phí dịch vụ mua ngoài. Chi phí quản lý cũng giảm từ 22 tỷ xuống 19 tỷ đồng. Theo đó, lợi nhuận sau thuế đạt hơn 30,7 tỷ đồng, gấp 3 lần cùng kỳ năm ngoái.

Đơn vị: tỷ đồng

Lũy kế 9 tháng, doanh thu thuần giảm 79% về mức 251 tỷ. Nhờ giá vốn và chi phí bán hàng giảm nên lãi sau thuế vẫn gấp 2,5 lên gần 32 tỷ đồng. So với kế hoạch năm, công ty hoàn thành 16% mục tiêu về doanh thu và 11% chỉ tiêu lợi nhuận.

Mặc dù tăng trưởng lợi nhuận nhưng dòng tiền kinh doanh vân âm 479 tỷ đồng do tăng các khoản phải thu (1.231 tỷ đồng). Cuối quý III, công ty có 3.390 tỷ đồng phải thu ngắn hạn và 1.227 tỷ đồng phải thu dài hạn, chiếm 69% quy mô tài sản. Trong đó, hơn 2.298 tỷ đồng là các khoản đặt cọc, ký quỹ ký cược ngắn, dài hạn.

Hàng tồn kho trong 9 tháng không thay đổi nhiều, đạt 1.059 tỷ đồng, chủ yếu là chi phí sản xuất, kinh doanh dở dang ở nhiều dự án.

Nguồn: LDG

Người mua trả tiền trước ngắn hạn tăng từ 529 tỷ lên gần 634 tỷ đồng. Nợ vay tài chính cuối kỳ tăng 65% lên 996 tỷ đồng, chủ yếu do phát sinh thêm 389 tỷ đồng nợ dài hạn. Khoản vay dài hạn phát sinh thêm là gần 311 tỷ đồng vay từ Sacombank. Hệ số nợ vay/vốn chủ sở hữu là 32%.

Trên thị trường, giá cổ phiếu LDG dao động khoảng 9.000 đồng/cổ phiếu trong phiên 27/10. Trước đó tại kỳ họp ĐHĐCĐ thường niên 2021, ông Nguyễn Khánh Hưng - Chủ tịch LDG chia sẻ có kế hoạch nửa cuối năm sẽ đưa thị giá cổ phiếu LDG quay trở lại mệnh giá, dự kiến rơi vào tháng 10.

Trong năm qua, LDG đã mua khu căn hộ Sông Đà Riverside từ Quốc Cường Gia Lai, đem về quỹ đất gần 3 ha để phát triển dự án căn hộ cao cấp LDG River, Thủ Đức, TP HCM. Tổng vốn đầu tư dự kiến khoảng 4.400 tỷ đồng.

Tổng quỹ đất phát triển tính đến cuối 2020 gần 813 ha tại các tỉnh Đồng Nai, Cần Thơ, Bình Dương, TP HCM, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đà Nẵng, Quảng Ninh. Các dự án diện tích lớn như LDG Grand miền Bắc (418,5 ha), LDG Grand miền Nam (222,5 ha)…

3 Likes

53. DVN: Hoàn nhập dự phòng, Dược Việt Nam lãi quý III tăng 40%
Nhờ hoàn nhập 11 tỷ dự phòng đầu tư tài chính, lãi sau thuế quý III tăng 40% đạt gần 50 tỷ đồng.

Lũy kế 9 tháng, doanh thu thuần giảm 12%, lãi trước thuế tăng 24% lên gần 190 tỷ đồng.

Tổng công ty Dược Việt Nam (UPCoM: DVN) công bố báo cáo hợp nhất quý III với doanh thu thuần giảm 16% về 1.074 tỷ đồng. Giá vốn hàng bán giảm 17% xuống 967 tỷ đồng nên biên lãi gộp tăng nhẹ từ 9% lên 10%.

Doanh thu tài chính giảm 26% xuống 20 tỷ đồng chủ yếu do cổ tức thấp hơn cùng kỳ. Chi phí tài chính giảm mạnh 88% xuống 5,6 tỷ đồng nhờ hoàn nhập 11 tỷ đồng dự phòng đầu tư tài chính. Chi phí quản lý doanh nghiệp cũng giảm 21% xuống 25 tỷ đồng. Theo đó, doanh nghiệp báo lãi sau thuế quý III đạt gần 50 tỷ đồng, tăng 40%.

Đơn vị: tỷ đồng

Lũy kế 9 tháng, doanh thu thuần giảm 12% về 3.362 tỷ. Các chi phí đều giảm trong kỳ, đặc biệt chi phí tài chính giảm 87% xuống 14 tỷ đồng nhờ hoàn nhập 36 tỷ đồng khoản dự phòng và chi phí lãi vay giảm từ 57 tỷ về 44 tỷ đồng. Kết quả, lãi trước thuế tăng 24% lên gần 190 tỷ đồng, vượt 24% kế hoạch năm. Phần lãi thuộc cổ đông công ty mẹ tăng 28% đạt hơn 162 tỷ đồng.

Quy mô tài sản cuối quý III đạt 6.011 tỷ đồng, giảm 92 tỷ đồng so với đầu năm. Tiền và các khoản tương đương tiền gấp 3 lần lên 252 tỷ đồng nhờ tăng dòng tiền từ kinh doanh và đầu tư. Đầu tư tài chính ngắn hạn, phần lớn là tiền gửi có kỳ hạn, giảm 10% về mức 547 tỷ đồng. Giá trị đầu tư vào các công ty liên kết và đơn vị khác khoảng 1.820 tỷ đồng. Trong đó, khoản đầu tư lớn nhất là góp 22% cổ phần tại Imexpharm với giá trị gần 381 tỷ đồng. Ngoài ra, đơn vị còn 4 công ty con cùng 7 thành viên liên kết khác, hầu hết kinh doanh trong lĩnh vực dược phẩm.

Tổng nợ vay tài chính giảm 74 tỷ về mức 1.340 tỷ đồng. Lợi nhuận sau thuế chưa phân phối đến cuối kỳ là 666 tỷ đồng trên vốn điều lệ 2.370 tỷ đồng. Cổ đông chính của doanh nghiệp vẫn là Bộ Y Tế nắm giữ 65% và Tập đoàn đầu tư Việt Phương sở hữu 17% vốn.

Hiện cổ phiếu DVN giao dịch quanh mức giá 25.700 đồng/cp, tăng khoảng 49% kể từ đầu năm.

54. HAH: Sản lượng và giá cước tăng, Hải An báo lãi quý III gấp 4 lần cùng kỳ
Lợi nhuận sau thuế đạt 80 tỷ đồng, gấp 4 lần cùng kỳ năm trước.

Vận tải Hải An vượt 29% mục tiêu lợi nhuận sau 9 tháng.

Giá cước cho thuê tàu, sản lượng khai thác tàu và cảng tăng thúc đẩy lợi nhuận.

Vận tải Xếp dỡ Hải An (HoSE: HAH) công bố BCTC công ty mẹ quý III với doanh thu 227 tỷ đồng, tăng 64%. Giá vốn tăng 17% nên lợi nhuận gộp đạt 100 tỷ đồng, gấp 3,3 lần cùng kỳ năm trước. Biên lợi nhuận gộp cải thiện từ 22% lên 44%.

Các chi phí không đáng kể, lợi nhuận sau thuế đạt 80 tỷ đồng, gấp 4 lần cùng kỳ năm trước. Lũy kế 9 tháng, doanh nghiệp vận tải biển báo cáo doanh thu tăng 44% lên 579 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế tăng 168% lên 204 tỷ đồng. Hải An vượt 29% mục tiêu lợi nhuận sau thuế năm.

Đơn vị: tỷ đồng

Doanh nghiệp lý giải lợi nhuận quý III tăng mạnh nhờ sản lượng hoạt động khai thác tàu và cảng tăng, giá cước cho thuê tàu tăng. Đồng thời, công ty đưa thêm tàu Haian West vào khai thác từ đầu tháng 5 giúp gia tăng sản lượng.

Hải An đã công bố bảng giá cước vận tải mới có hiệu lực từ 13/10, đây là lần điều chỉnh giá thứ 2 trong vòng 1 tháng. SSI Research tính toán giá cước tăng 36% so với quý III và tăng trung bình 46% so với đầu năm, mức này thấp hơn nhiều so với tăng giá cước vận tải quốc tế.

Bộ phận phân tích SSI đánh giá điều này phản ánh nhu cầu vận tải container mạnh mẽ trong quý IV khi hoạt động sản xuất dự kiến dần trở lại sau các đợt giãn cách xã hội do Covid-19, trong khi nguồn cung trong nước khan hiếm do nhiều tàu container trong nước đã được cho thuê ra thị trường quốc tế trong năm nay.

Nhu cầu tăng cao, Vận tải Hải An liên tục đầu tư thêm tàu mới. Kể từ tháng 7/2020 đến nay, doanh nghiệp đã mua thêm 3 tàu gồm HaiAn West (1.740 teu), Hải An East (1.702 teu) và HaiAn View (1.577 teu). Trong khi, đơn vị thực hiện bán tàu có tuổi đời cao là HaiAn Song trong quý I.

Trong giai đoạn 2021-2024, doanh nghiệp có kế hoạch đặt đóng mới 1 đến 2 tàu container 1.800 teu loại “SDARI Bangkok Max IV”. Cùng với đó, doanh nghiệp tiếp tục tìm kiếm và đầu tư 2 tàu cũ loại 1.000 – 1.500 teu để sử dụng cho các tuyến ngắn Hải Phòng/ Hongkong – Nam Trung Quốc và miền Trung/Cái Mép – TP HCM.

55. CTG: VietinBank báo lợi nhuận 9 tháng 13.910 tỷ đồng, tăng trưởng 34,2%
Phần lớn các mảng kinh doanh của ngân hàng đều ghi nhận tăng trưởng khá tốt trong 9 tháng đầu năm.

Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – VietinBank (mã CTG) vừa công bố BCTC quý 3/2021 với lợi nhuận trước thuế 3.060 tỷ đồng, tăng nhẹ 5,4% so với cùng kỳ. Lũy kế 9 tháng đầu năm 2021, lợi nhuận trước thuế của VietinBank đạt 13.910 tỷ đồng, tăng 34,2% so với cùng kỳ năm trước.

Trong đó, thu nhập lãi thuần quý 3 đạt 9.872 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng thu nhập hoạt động (lũy kế tại 30/9/2021 chiếm 80%) và tăng 24% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 9 tháng, mảng tín dụng mang về cho ngân hàng khoản lãi 31.392 tỷ đồng, tăng trưởng 24,1%.

Lãi thuần từ hoạt động dịch vụ tiếp tục có sự tăng trưởng khả quan, riêng quý 3 đạt 1.154 tỷ đồng và lũy kế 9 tháng đạt 3.794 tỷ tăng 17% so với cùng kỳ năm trước nhờ việc triển khai thúc đẩy bán sản phẩm có thế mạnh như tài trợ thương mại, chuyển tiền, dịch vụ thẻ… đồng thời kiểm soát các khoản chi dịch vụ để tối ưu hóa hiệu quả quản trị chi phí.

Lãi thuần từ kinh doanh ngoại hối đạt 499 tỷ đồng trong quý 3, nâng lợi nhuận lũy kế 9 tháng mảng này lên 1.355 tỷ đồng, giảm nhẹ 11% so với cùng kỳ.

Mảng mua bán chứng khoán đầu tư lãi 232 tỷ đồng trong riêng quý 3, tăng gấp đôi cùng kỳ. Dù vậy, lũy kế 9 tháng đầu năm, lợi nhuận mảng này chỉ đạt 144 tỷ đồng, giảm 40%.

Lợi nhuận từ hoạt động khác ghi nhận 1.937 tỷ đồng trong 9 tháng, tăng trưởng 68% so với cùng kỳ năm trước.

Tỷ lệ bao phủ nợ xấu của VietinBank đến cuối tháng 9 là 119%.

Chi phí hoạt động riêng quý 3 giảm nhẹ 2,8% trong khi chi phí 9 tháng lại tăng 9,6%, lên 11.346 tỷ đồng.

VietinBank cho biết, thời điểm quý 3/2021, nền kinh tế Việt Nam chịu tác động rất lớn của đợt dịch COVID-19 tái bùng phát lần thứ 4 đã khiến nhiều tỉnh/thành phố phải thực hiện giãn cách xã hội. Mức độ ảnh hưởng ngày càng lan rộng và gia tăng tại nhiều ngành, lĩnh vực của nền kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực dịch vụ lưu trú, vận tải, xây dựng, nông nghiệp… Hoạt động sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp bị giảm sút, tiềm ẩn rủi ro không trả được nợ cho ngân hàng.

Để dự phòng rủi ro, ngân hàng đã chủ động dành nguồn lực tài chính trích lập dự phòng bổ sung theo Thông tư 03/2021/TT-NHNN, nâng cao năng lực tài chính, khả năng chống chịu trước các rủi ro có thể có từ nền kinh tế.

Theo đó, tại 30/9/2021 dự phòng rủi ro cho vay khách hàng là 21,5 nghìn tỷ đồng, tăng 8,9 nghìn tỷ đồng (tương đương tăng 71%) so với đầu năm. Chi phí dự phòng rủi ro cho vay trích lập trong 9 tháng năm 2021 là 14 nghìn tỷ đồng, tăng 2,5 nghìn tỷ (tương đương tăng 22%) so với cùng kỳ năm trước. Riêng trong quý 3/2021, ngân hàng trích lập 5,5 nghìn tỷ đồng. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu đến ngày 30/9/2021 là 119%.

Quy mô tổng tài sản tại 30/9/2021 của VietinBank là 1.447 nghìn tỷ đồng, tăng 7,9% so với đầu năm. Trong đó, cho vay khách hàng đạt 1.084 nghìn tỷ đồng, tăng trưởng 6,8% so với đầu năm. Tiền gửi của khách hàng ở mức gần 1.073 nghìn tỷ đồng, tăng trưởng 8,3%. Tỷ lệ cho vay/tiền gửi khách hàng ở mức khá cao, vượt 100%. Theo đó, để thu xếp nguồn tín dụng, ngân hàng vay các TCTD khác gần 108,7 nghìn tỷ đồng, gấp tới 3,6 lần cùng kỳ năm trước. Đồng thời, phát hành giấy tờ có giá tăng 17,2%, lên 70,2 nghìn tỷ đồng.

Về chất lượng tín dụng, tại thời điểm cuối tháng 9, VietinBank đang có 18.096 tỷ đồng nợ xấu nội bảng, tăng tới 90% so với đầu năm, trong đó chủ yếu tăng ở nhóm nợ nghi ngơ và nợ dưới chuẩn. Riêng nợ có khả năng mất vốn giảm 41% so với đầu năm. Tỷ lệ nợ xấu/cho vay của ngân hàng dù vậy vẫn ở mức khá thấp, 1,67%.

56. OIL: PV OIL lãi trước thuế 80 tỷ đồng trong quý III, vượt 54% kế hoạch năm sau 9 tháng
Gộp chung 3 quý năm 2021, doanh thu thuần của PV OIL đạt 37.800 tỷ đồng, giảm gần 8% so với cùng giai đoạn năm trước. Tuy nhiên nhờ giảm tải giá vốn, cũng như chi phí khác thì doanh nghiệp vẫn ghi nhận lợi nhuận trước thuế gần 615 tỷ đồng, trong khi 9 tháng đầu năm ngoái lỗ trên 305,5 tỷ đồng.

Tổng công ty Dầu Việt Nam - CTCP (PV OIL, UPCoM: OIL) vừa công bố báo cáo tài chính hợp nhất quý III với doanh thu thuần đạt 12.612 tỷ đồng, tăng gần 9% so với cùng kỳ năm ngoái. Khấu trừ chi phí giá vốn, PV OIL lãi gộp 573 tỷ đồng, cao hơn 17% con số thu về quý III/2020.

Trong quý, “ông lớn” ngành dầu ghi nhận 103,7 tỷ đồng doanh thu tài chính, giảm tới 32% so với cùng kỳ; chi phí tài chính, chủ yếu là lãi vay tăng 17,5% lên 53,5 tỷ đồng. Đáng chú ý, chi phí quản lý doanh nghiệp giảm khá mạnh, gần 24% xuống 167,6 đồng; còn chi phí bán hàng chỉ tăng nhẹ 3% lên 396 tỷ đồng.

Kết thúc quý III, PV OIL báo lãi trước thuế 80 tỷ đồng, tăng đáng kể so với mức đạt hơn 1 tỷ đồng cùng kỳ năm ngoái. Khấu trừ thuế, doanh nghiệp lãi ròng 56,5 tỷ đồng, đảo chiều từ khoản lỗ 16,6 tỷ đồng quý III/2020.

Gộp chung 3 quý năm 2021, doanh thu thuần của PV OIL đạt 37.800 tỷ đồng, giảm gần 8% so với cùng giai đoạn năm trước. Tuy nhiên nhờ giảm tải giá vốn, cũng như chi phí khác thì doanh nghiệp vẫn ghi nhận lợi nhuận trước thuế gần 615 tỷ đồng, trong khi 9 tháng đầu năm ngoái lỗ trên 305,5 tỷ đồng.

So với kế hoạch đề ra cho năm 2021, PV OIL mới chỉ hoàn thành 68% chỉ tiêu doanh thu nhưng đã vượt gần 54% chỉ tiêu về lợi nhuận.

PV OIL lãi trước thuế quý IIII đạt 80 tỷ đồng, vượt 54% kế hoạch năm sau 9 tháng

Tại thời điểm lập báo cáo quý III, tổng tài sản của PV OIL ở mức 25.907 tỷ đồng, tăng hơn 17% sau 9 tháng. Trong đó, doanh nghiệp dự trữ gần 2.900 tỷ đồng tiền và tương đương tiền (giảm 18%) và gửi ngắn hạn gần 7.230 tỷ đồng, tăng 22% so với đầu năm; khoản phải thu ngắn hạn khác tăng 28% lên 4.214 tỷ đồng, do phát sinh thêm tiền thu hộ, trả hộ tiền dầu thô xuất khẩu ủy thác.

Nợ phải trả chiếm 14.843 tỷ đồng, tương ứng 57% nguồn vốn. Tổng nợ vay đạt gần 5.500 tỷ đồng, chủ yếu là nợ vay ngắn hạn (5.394 tỷ đồng), tăng gần 35% so với hồi đầu kỳ. Đến cuối quý III, PV OIL vẫn đang lỗ lũy kế hơn 500 tỷ đồng, nhưng đã giảm lỗ 45% sau 9 tháng.

Trước đó, theo kết quả kinh doanh sơ bộ 8 tháng đầu năm, PV OIL đã lỗ trước thuế khoảng 17 tỷ đồng trong tháng 7 và 8. Đó cũng là giai đoạn dịch Covid-19 lan rộng khắp cả nước khiến nhiều tỉnh, thành phố thực hiện giãn cách xã hội, qua đó kéo nhu cầu tiêu thụ xăng dầu xuống rất mạnh, trực tiếp ảnh hưởng đến sản lượng kinh doanh mặt hàng này của PV OIL.

Như vậy, doanh nghiệp đã ghi nhận sự bứt phá trong tháng 9, ước tính thu về lợi nhuận trước thuế gần 100 tỷ đồng trong bối cảnh các biện pháp giãn cách dần được nới lỏng.

1 Likes

Okie bro, Mất chút thời gian nhưng để ae có thêm chút thông tin tránh mua phải các mã kết quả kinh doanh không khả quan dẫn đến giá cổ phiếu giảm trong ngắn hạn.

4 Likes

nào DTD ra bctc quý 3, bác review giúp tôi luôn nha. Cám ơn bác

1 Likes

Bác với cái tâm giúp đỡ ae. Rất trân trọng, thank bác.

Ok bro nhé

2 Likes

bác chăm chỉ phết, thế này bảo sao đào toàn hàng ngon

1 Likes

57. SFG: Phân bón miền Nam lãi quý III gấp nhiều lần cùng kỳ, ước tính quý IV tiếp tục khả quan
Phân bón miền Nam dự kiến quý IV lãi 8 tỷ đồng, cùng kỳ năm trước lỗ 1 tỷ đồng.

Quý III, lợi nhuận sau thuế 5,9 tỷ đồng, gấp nhiều lần con số 292 triệu đồng cùng kỳ năm trước.

Phân bón miền Nam (HoSE: SFG) công bố doanh thu quý III đạt 410 tỷ đồng, tăng 73%. Giá vốn tăng cao hơn do thực hiện phương án sản xuất “3 tại chỗ”. Do vậy, lợi nhuận gộp đạt 25,4 tỷ đồng, tăng 43%. Biên lợi nhuận gộp giảm từ 7,5% xuống 8,3%.

Chi phí tài chính giảm 18%, chi phí bán hàng tăng 13,6% và chi phí quản lý giảm 7,3%. Doanh nghiệp ghi nhận lợi nhuận sau thuế 5,9 tỷ đồng, gấp nhiều lần con số 292 triệu đồng cùng kỳ năm trước.

Lũy kế 9 tháng, doanh thu đạt 1.404,5 tỷ đồng, tăng 28%; lãi sau thuế 17,9 tỷ đồng, gấp 6 lần cùng kỳ. Với kết quả này, Phân bón miền Nam vượt 348% kế hoạch lợi nhuận trước thuế năm (5 tỷ đồng).

Đơn vị: tỷ đồng

Trong quý IV, doanh nghiệp đặt mục tiêu sản lượng tiêu thu, doanh thu và lợi nhuận cùng tăng mạnh so với quý IV/2020.

Cụ thể, sản lượng tiêu thụ đạt 25.000 tấn phân lân các loại, tăng 25%; 25.000 tấn phân hỗn hợp NPK, tăng 23; 25.000 tấn kinh doanh nguyên liệu, tăng 11%; 15.000 tấn axit H2SO4, tăng 9% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu 450 tỷ đồng, tăng 32% và lợi nhuận 8 tỷ đồng, cùng kỳ năm trước lỗ 1 tỷ đồng.

Nguồn: SFG

Như vậy, cả năm, Phân bón miền Nam dự kiến doanh thu đạt 1.855 tỷ đồng, tăng 28,5% và vượt 12,5% kế hoạch năm; lợi nhuận trước thuế 30,4 tỷ đồng, gấp 10 lần cùng kỳ và gấp 6 lần kế hoạch năm.

1 Likes

58. HDB: HDBank báo lãi tăng 39% trong 9 tháng, nợ xấu tăng 14%
Chi phi hoạt động và dự phòng rủi ro giảm, giúp lợi nhuận tăng 28% trong quý III.

Nợ xấu tăng 14% trong khi cho vay khách hàng tăng 7%, đẩy tỷ lệ nợ xấu từ 1,3% lên 1,4%.

Theo BCTC hợp nhất quý III, HDBank (HoSE: HDB) ghi nhận thu nhập lãi thuần tăng 9% lên 3.306 tỷ đồng. Thu nhập từ hoạt động dịch vụ đi ngang với 329 tỷ đồng lãi thuần. Hoạt động ngoại hối mang về 20,6 tỷ đồng, thấp hơn 32% so với cùng kỳ năm trước.

Tổng thu nhập hoạt động quý III đạt 3.705 tỷ đồng, tăng gần 7%. Trong khi đó, chi phí hoạt động 1.411 tỷ đồng, giảm 10%. Ngân hàng lãi trước trích lập 2.294 tỷ đồng, tăng 20% so với cùng kỳ năm trước.

Chi phí dự phòng rủi ro trong quý cũng giảm gần 7%, xuống 403 tỷ đồng. Lợi nhuận trước thuế tăng 28% lên 1.891 tỷ đồng.

Lợi nhuận trước thuế HDBank tăng trong 9 tháng. Ảnh: HDB.

Lũy kế 9 tháng, lợi nhuận trước thuế đạt hơn 6.084 tỷ đồng, tăng 39% so với cùng kỳ, tương đương khoảng 83,5% kế hoạch cả năm. Hệ số ROE đạt 24%, cao hơn mức 21% cùng kỳ năm trước.

Tính đến 30/9, tổng tài sản ở mức 346.355 tỷ đồng, tăng 8,5% so với đầu năm. Dư nợ khách hàng tăng 7,4% lên 191.515 tỷ đồng, dự phòng rủi ro tăng 12%. Nợ xấu tăng 14%, ở mức 2.679 tỷ đồng, chủ yếu do nợ nhóm 5 tăng 56% lên hơn 1.153 tỷ đồng. Tỷ lệ nợ xấu nâng từ 1,3% lên 1,4%.

Về nguồn vốn, tiền gửi khách hàng tăng 11% lên gần 194.429 tỷ đồng. Trong đó, tiền gửi không kỳ hạn tăng 7,7% lên 22.675 tỷ đồng, tiền gửi có kỳ hạn tăng 11,5% lên 170.577 tỷ đồng. Hệ số an toàn vốn CAR nâng từ 10,9% lên 13,5%.

1 Likes

59. VCS: Vicostone lãi kỷ lục 485 tỷ đồng trong quý III
Doanh thu tăng 24%, lợi nhuận sau thuế tăng 20% đạt 485 tỷ đồng trong quý III.

Lũy kế 9 tháng, lợi nhuận trước thuế tăng 37% lên gần 1.542 tỷ đồng.

Theo BCTC hợp nhất quý III, Vicostone (HNX: VCS) đạt gần 1.862 tỷ đồng doanh thu, tăng 24% so với cùng kỳ năm trước. Giá vốn thấp hơn nên lợi nhuận gộp tăng gần 26% lên mức hơn 679 tỷ đồng. Biên lợi nhuận gộp là 36,5%, cao hơn mức 35,8% cùng kỳ.

Doanh thu tài chính gần 12,2 tỷ đồng, tăng 68% nhờ lãi tiền gửi, tiền cho vay và chênh lệch tỷ giá tăng. Ngược lại, kỳ này phát sinh thêm hơn 17 tỷ lỗ chênh lệch tỷ giá khiến chi phí tài chính tăng 66% lên hơn 31 tỷ đồng. Chi phí bán hàng cũng tăng mạnh 87% do chi phí dịch vụ mua ngoài gấp đôi lên hơn 60 tỷ. Trong khi đó, chi phí quản lý giảm 40% xuống gần 9 tỷ đồng, chủ yếu do chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí khấu hao và chi phí bằng tiền khác giả,.

Kết quả, lãi sau thuế đạt hơn 485 tỷ đồng, tăng 20% so với cùng kỳ. Đây cũng là quý có lợi nhuận cao nhất của doanh nghiệp kinh doanh đá thạch anh này.

Đơn vị: tỷ đồng

Lũy kế 9 tháng, doanh thu thuần tăng 30% lên hơn 5.206 tỷ đồng và hoàn thành 76% kế hoạch. Lợi nhuận trước thuế đạt gần 1.542 tỷ đồng, tăng 37%, tương đương 80% mục tiêu cả năm. Lợi nhuận sau thuế tăng 35%, ở mức hơn 1.304 tỷ đồng.

Tại thời điểm 30/9, quy mô tài sản đạt 6.884 tỷ đồng, tăng 14% so với đầu năm. Tài sản ngắn hạn tăng 18% lên hơn 5.792 tỷ đồng, trong đó phần lớn là phải thu ngắn hạn của khách hàng với 2.329 tỷ đồng (tăng 21%) và hàng tồn kho với 1.879 tỷ đồng (giảm 7%).

Công ty có khoản phải thu ở các bên liên quan là hơn 1.535 tỷ đồng, trong đó các khoản lớn nằm ở Chế tác đá Việt Nam (472 tỷ đồng), Công ty TNHH Stylenquaza (464 tỷ đồng),…

Vay và nợ thuê tài chính ngắn hạn giảm 9 tỷ đồng xuống mức 1.524 tỷ đồng, vay dài hạn giảm 40 tỷ đồng xuống 159,6 tỷ đồng. Hệ số nợ vay/vốn chủ là 36%. Tính đến 30/9, công ty có 3.018 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế chưa phân phối và 89 tỷ đồng quỹ đầu tư phát triển.

Trên thị trường chứng khoán, giá cổ phiếu VCS chốt phiên 27/10 đứng ở mức 125.700 đồng/cp, tăng 51% so với đầu năm.

2 Likes

60. QNS: Đường Quảng Ngãi hoàn thành 95% kế hoạch sau 9 tháng
Doanh thu thuần quý III tăng 15%, lãi ròng theo đó tăng 49% lên hơn 348 tỷ đồng.

Sau 9 tháng, doanh nghiệp lãi 869 tỷ đồng, tăng 30% so với cùng kỳ.

Đường Quảng Ngãi (UPCoM: QNS) công bố báo cáo tài chính hợp nhất quý III với doanh thu thuần tăng 15% lên gần 2.115 tỷ đồng. Giá vốn tăng thấp hơn khiến lợi nhuận gộp tăng 22% lên 653 tỷ đồng. Biên lãi gộp theo đó cải thiện từ 32% lên 34%.

Chi phí tài chính và bán hàng đều tăng hơn 10% so với cùng kỳ, ngược lại chi phí quản lý giảm 16% về hơn 64 tỷ. Lợi nhuận khác đạt hơn 4 tỷ nhờ thanh lý vật tư, tài sản cố định, cải thiện so với mức âm hơn 550 triệu đồng quý III/2020. Theo đó, lợi nhuận cổ đông công ty mẹ tăng 49% lên hơn 348 tỷ đồng. EPS tương ứng 1.155 đồng.

Doanh nghiệp cho biết tăng trưởng trong quý III chủ yếu từ hoạt động của mảng sữa đầu nành và mảng đường. Cụ thể, tốc độ tăng trưởng của Vinasoy hơn 10% và đã xuất khẩu sang thị trường các nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Hàn Quốc… Về mảng đường, doanh nghiệp phát triển vùng nguyên liệu theo hướng sản xuất công nghiệp trên cơ sở ứng dụng khoa học kỹ thuật, giúp nâng cao năng suất và chất lượng cây mía. Dây chuyền sản xuất sản phẩm đường ổn định, công ty cũng tiết kiệm chi phí trong sản xuất, hạ giá thành sản phẩm.

Kết thúc 9 tháng đầu năm, Đường Quảng Ngãi ghi nhận doanh thu thuần đạt 5.776 tỷ đồng, tăng 13% và lợi nhuận sau thuế là 869 tỷ đồng, tăng 30% so với cùng kỳ.

Đơn vị: tỷ đồng

Năm 2021, chủ thương hiệu Vinasoy đặt mục tiêu 8.000 tỷ đồng tổng doanh thu và 913 tỷ lợi nhuận sau thuế, lần lượt tăng 19% và giảm 13% so với thực hiện năm ngoái. Như vậy, Đường Quảng Ngãi đã hoàn thành 72% kế hoạch doanh thu và 95% kế hoạch lợi nhuận.

Đến cuối quý III, quy mô tài sản đạt 9.496 tỷ đồng, giảm hơn 300 tỷ so với đầu năm. Tiền mặt và tiền gửi ngân hàng không kỳ hạn là 369 tỷ đồng, giảm 13%. Đơn vị còn hơn 3.461 tỷ tiền gửi có kỳ hạn gốc từ 3 tháng đến một năm, chiếm khoảng 1/3 tổng tài sản và tăng 31% so với đầu kỳ. Phải thu khách hàng ngắn hạn tăng 48% lên 119 tỷ, hơn nửa đến từ Tập đoàn Điện lực Việt Nam.

Người mua trả tiền trước ngắn hạn giảm 47% về 32 tỷ đồng. Chi phí phải trả ngắn hạn gấp 60 lần lên hơn 180 tỷ đồng do trích trước gần 172 tỷ chi phí bán hàng. Nợ vay ngắn hạn giảm 5% về 1.640 tỷ đồng gồm các khoản vay tại BIDV (871 tỷ), VietinBank (748 tỷ) và Vietcombank (21 tỷ).

Thời gian gần đây, các doanh nghiệp mía đường Việt Nam có thêm cơ hội cạnh tranh về giá so với các sản phẩm nhập khẩu khi từ ngày 16/6, Quyết định của Bộ Công thương về mức thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp chính thức 47,64% đối với đường tinh luyện (RE) và đường thô (RS) nhập khẩu từ Thái Lan có hiệu lực trong thời hạn 5 năm.

Theo SSI Research, Đường Quảng Ngãi sẽ được hưởng lợi mạnh so với các đơn vị còn lại. Trong số các công ty sản xuất đường, doanh nghiệp dự kiến sản lượng mía nguyên liệu đầu vào sẽ tăng lớn nhất trong năm tới (50% so với cùng kỳ). Niên vụ 2022-2023, công ty kỳ vọng diện tích trồng mía tiếp tục tăng 40%. Với lượng mía nguyên liệu đầu vào tăng, SSI Research kỳ vọng công ty sẽ tăng công suất hoạt động cho cả hoạt động sản xuất đường và điện sinh khối, thúc đẩy cả doanh thu và lợi nhuận của hai mảng này.

Sản lượng đường RS ước đạt 105.000 tấn (tăng 25% so với cùng kỳ) trong năm nay và sẽ tăng 50% lên 158.000 tấn trong năm 2022. Dây chuyền sản xuất đường RE bắt đầu đi vào hoạt động thương mại từ ngày 1/7 và Đường Quảng Ngãi đang có kế hoạch đấu thầu hạn ngạch nhập khẩu đường.

1 Likes

Toppic chất lượng quá bác!

1 Likes

61. GVR: Tập đoàn Cao su báo lãi quý III tăng 26% nhờ giá mủ cao su tăng
Biên lợi nhuận gộp tập đoàn cải thiện từ 20,3% cùng kỳ năm trước lên 34% trong quý III.

Tập đoàn giảm được 2.630 tỷ đồng nợ vay trong 9 tháng.

Doanh nghiệp thực hiện 63% kế hoạch doanh thu và 83% kế hoạch lợi nhuận năm.

Theo BCTC hợp nhất quý III, Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam (HoSE: GVR) ghi nhận doanh thu đi ngang với 6.151 tỷ đồng. Giá vốn giảm 17% nên lợi nhuận gộp tăng 67% đạt 2.089 tỷ đồng. Biên lợi nhuận gộp tăng từ 20,3% lên 34%.

Trong cơ cấu doanh thu, lợi nhuận thuần, sản xuất và kinh doanh mủ cao su đóng góp lớn nhất với lần lượt 4.346 tỷ đồng và 1.147 tỷ đồng. Mảng chế biến gỗ đóng góp doanh thu 632 tỷ và lợi nhuận 145 tỷ đồng. Sản xuất và kinh doanh sản phẩm cao su đem về 537 tỷ đồng doanh thu và 87 tỷ đồng lợi nhuận. Mảng bất động sản tuy chỉ ghi nhận 315 tỷ đồng doanh thu nhưng lợi nhuận thuần 172 tỷ đồng, biên lợi nhuận thuần đạt cao nhất với 54,6%.

Tuy nhiên, doanh thu tài chính giảm 81% xuống 175 tỷ đồng do giảm lãi tiền gửi, tiền cho vay và hoạt động tài chính khác. Chi phí tài chính giảm 48% nhờ hoàn nhập dự phòng giảm giá các khoản đầu tư, giảm chi phí lãi vay và giảm chi phí tài chính khác. Lợi nhuận liên doanh liên kết cũng giảm 14%. Về mặt chi phí, chi phí bán hàng giảm 14%, chi phí quản lý tăng 16%. Hoạt động khác ghi nhận lãi 89 tỷ đồng, tương đương cùng kỳ năm trước.

Kết lại, Tập đoàn Cao su ghi nhận lợi nhuận sau thuế cổ đông công ty mẹ đạt 1.241 tỷ đồng, tăng 26%. Doanh nghiệp cho biết kết quả kinh doanh khả quan đến từ việc chủ động ứng phó phù hợp với trạng thái sản xuất bình thường mới. Đồng thời, giá bán các sản phẩm mủ cao su tăng, ổn định; giá bán mặt hàng gỗ và sản phẩm công nghiệp cao su cũng tăng giúp lợi nhuận gộp và lợi nhuận sau thuế của đa số các đơn vị có vốn góp của tập đoàn cải thiện đáng kể so với cùng kỳ năm trước.

Đơn vị: tỷ đồng

9 tháng, doanh thu tăng 38% đạt 16.695 tỷ đồng, lợi nhuận ròng tăng 75% lên 2.818 tỷ đồng. Đơn vị thực hiện 63% kế hoạch doanh thu và 83,3% kế hoạch lợi nhuận sau thuế năm. Theo chu kỳ kinh doanh, quý IV thường là quý gặt hái nhiều lợi nhuận nhất của Tập đoàn Cao su.

Đơn vị: tỷ đồng

Tại thời điểm cuối quý, tập đoàn có 7.326 tỷ đồng tiền và tương đương tiền, tăng thêm 1.797 tỷ đồng. Song khoản tiền gửi ngắn hạn giảm từ 10.765 tỷ xuống 8.880 tỷ đồng. Khoản phải thu giảm 13% xuống 2.567 tỷ đồng, hàng tồn kho tăng mạnh 80% lên 3.611 tỷ đồng.

Công ty giảm được 2.630 tỷ đồng nợ vay trong 9 tháng, nợ vay ngắn hạn giảm từ 3.772 tỷ xuống 1.970 tỷ đồng và nợ vay dài hạn từ 8.335 tỷ xuống 7.507 tỷ đồng. Tỷ lệ nợ vay trên vốn chủ sở hữu là 17,7%.

Doanh thu chưa thực hiện ngắn hạn tăng từ 320 tỷ đầu năm lên 449 tỷ đồng, trong khi doanh thu chưa thực hiện dài hạn tương đương đầu năm với 8.744 tỷ đồng.

1 Likes

62. HSG: Hoa Sen lãi 940 tỷ đồng quý IV, gấp đôi cùng kỳ và giảm 45% so với quý III
Doanh nghiệp tôn mạ vượt 48% kế hoạch doanh thu và 188% kế hoạch lợi nhuận năm.

Sản lượng tiêu thụ của Hoa Sen đạt 559.578 tấn, tăng 9% so với cùng kỳ năm trước bất chấp dịch bệnh.

Tập đoàn Hoa Sen (HoSE: HSG) thông báo tháng 9 tiêu thụ 202.294 tấn sản lượng, tăng nhẹ 7% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu 6.175 tỷ đồng, gấp đôi và lợi nhuận 318 tỷ, gấp 3,2 lần.

Đơn vị: tỷ đồng

Cả quý IV niên độ 2020-2021 (năm tài chính từ 1/10 tới 30/9), doanh nghiệp tôn mạ tiêu thụ 559.578 tấn sản lượng, tăng 9% bất chấp diễn biến phức tạp của dịch bệnh nhờ đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu trong khi tiên thụ nội địa giảm. Theo số liệu của VSA, sản lượng tiêu thụ tôm mạ của Hoa Sen Group quý IV đạt 425.776 tấn, giảm 12,7% so với quý III. Riêng xuất khẩu đạt 383.000 tấn, chiếm 90% tổng sản lượng bán ra.

Nhờ vậy, doanh thu quý IV đạt 15.797 tỷ đồng, tăng 89% và lợi nhuận sau thuế 940 tỷ đồng, gấp đôi quý IV niên độ 2019-2020. Dù vậy, so với quý III, lợi nhuận giảm 45% và so với quý II giảm 9%.

Như vậy, năm tài chính 2020-2021, Hoa Sen tiêu thụ 2,25 tấn, tăng 39% và vượt 25% kế hoạch năm; doanh thu 48.727 tỷ đồng, tăng 77% và vượt 48% kế hoạch; lợi nhuận 4.313 tỷ đồng, gấp 3,7 lần và vượt 188% kế hoạch năm. Đây cũng là lợi nhuận kỷ lục trong 1 năm tài chính, mốc gần nhất là 1.504 tỷ đồng của 2016.

1 Likes