Vietinbank - Xứng đáng với mức P/B mục tiêu cao hơn

, , , , , , , , ,

Xin chào ACE nhà đầu tư !

  • Việc giảm nhẹ trích lập dự phòng và phục hồi mạnh hơn của thu nhập ngoài lãi
    trong sẽ thúc đẩy tăng trưởng lợi nhuận trong năm 2025.
  • Mặc dù chi phí trích lập dự báo không tang mạnh trong giai đoạn 2025/2026,
    chất lượng tài sản vẫn sẽ được cải thiện nhờ đẩy mạnh thu hồi nợ xấu.
    Hôm nay chúng ta cùng phân tích kỹ hơn và định giá CTG nhé !

Giảm tỷ lệ trích lập dự phòng giúp LNST tăng trưởng lần lượt 30.8%/17.9%
trong năm 2025 và 2026

  • Đối với năm 2025 và 2026, ước tính tổng thu nhập hoạt động (TOI) của CTG sẽ tăng trưởng lần lượt 18.7%/13.4% svck chủ yếu nhờ (i) NIM duy trì trên 3.0%; (ii) tăng trưởng tín dụng (TTTD) đạt trên 15%; và (iii) chi phí tín dụng có xu hướng về mức 1.0% trong trung hạn. Do đó, ước tính chi phí dự phòng tín dụng trong năm 2025 và 2026 lần lượt tăng nhẹ 1.2% và 6.9% svck với giả định chi phí tín dụng tương ứng giảm xuống mức 1.12% và 1.05%. Do đó, LNST tăng trưởng lần lượt 30.8% và 17.9% svck.

Chất lượng tài sản dự báo tiếp tục được cải thiện trong 2 năm tới

  • Tỷ lệ nợ xấu (NPL) và nợ nhóm 2 lần lượt đạt 1.25% và 1.32% vào cuối năm
    2024, tăng +12 và -23 đcb (điểm cơ bản) svck. Nhìn chung, tỷ lệ nợ dưới chuẩn
    (nhóm 2-5) giảm nhẹ 11 đcb svck. Trong năm tài chính 2024, CTG ghi nhận chi
    trích lập dự phòng là 27,599 tỷ đồng (+9.9% svck) nhờ mức giảm đáng kể 44.9%
    svck của Q4/2024. Chi phí tín dụng năm 2024 đạt 1.27%, -8 đcb so với 1.35%
    của năm 2023. Nhờ tăng cường trích lập dự phòng trong vài năm trở lại đây, chất
    lượng tài sản của CTG vượt trội so với toàn ngành và vượt kế hoạch đề ra. Mặc
    dù chi phí tín dụng được dự báo sẽ giảm, dự báo chất lượng tài sản sẽ
    liên tục cải thiện trong 2 năm tới. Dự kiến NPL sẽ giảm xuống còn 1.1% và 1.0%,
    đưa LLR lên mức 205% và 213% vào cuối năm 2025 và 2026.
    Ảnh chụp màn hình 2025-04-22 170415

Hiệu quả kinh doanh vượt trội trong Q4/2024 nhờ chi phí trích lập dự phòng giảm mạnh



LNST 2025 dự báo tăng tốc 30.8% svck nhờ chi phí tín dụng thấp hơn và giảm tốc vào năm 2026 do nền so sánh cao năm trước đó

Tăng trưởng tín dụng duy trì ở mức khoảng 15% trong 2 năm tới

  • Đến cuối năm 2024, TTTD của CTG đạt 16.9% svck, cao hơn một chút so với toàn hệ thống (15.0% svck) và thấp hơn một chút so với các ngân hàng niêm yết (17.7% svck). Với quy mô khổng lồ, TTTD của các NHTM nhà nước (SOCB) khó có thể vượt xa các NHTM tư nhân.

  • Không giống như diễn biến chung của toàn ngành ngân hàng, TTTD của CTG chủ yếu được thúc đẩy bởi nhóm khách hàng cá nhân (KHCN) với dư nợ cho vay tăng 21.9% svck vào cuối năm 2024. Ngân hàng bán lẻ chiếm 62.5% tổng tín dụng của CTG tính đến ngày 31/12/2024. Trong khi đó, nhóm khách hàng doanh nghiệp (KHDN) tăng trưởng 13.5% svck, chủ yếu được thúc đẩy bởi nhóm khách hàng doanh nghiệp lớn (CIB) và FDI. Dư nợ cho vay của 2 nhóm khách hàng này tăng vọt lần lượt 23.6% và 25.9% svck trong năm 2024. Khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) ghi nhận tín dụng giảm nhẹ 0.5% svck do nhu cầu tín dụng thấp. Nền kinh tế phục hồi chậm, đặc biệt là đối với ngành sản xuất và thương mại, đã khiến các doanh nghiệp SME ngần ngại mở rộng quy mô trong năm 2024 qua đó giảm nhu cầu tín dụng của nhóm này.

  • Theo cách này hay cách khác, TTTD của các NHTM quốc doanh (SOCBs) thường sẽ theo sát tín dụng toàn ngành do dư nợ chiếm 43.5% tổng tín dụng của các NHNY theo số liệu cuối năm 2024. Do đó, để đạt được mức 17-18% mục tiêu TTTD, ước tính TTTD của các NHTM quốc doanh phải đạt15-16% trong năm 2025. Tín dụng của CTG dự kiến sẽ tiếp tục tập trung vào ngân hàng bán lẻ nhờ sự phục hồi mạnh mẽ hơn của tín dụng vay bán lẻ toàn
    ngành. Với thị phần lớn và lợi thế COF thấp, các khoản cho vay bán lẻ của CTG dự kiến sẽ tiếp tục tăng trưởng 20% svck trong các năm 2025 và 2026, chủ yếu nhờ vào thương mại, sản xuất nông nghiệp và cho vay mua nhà. Đối với tín dụng DN, nhóm KH CIB và FDI vẫn sẽ là động lực chính thúc đẩy TTTD của CTG trong các năm 2025 và 2026. Xét về ngành, tín dụng DN của CTG có xu hướng tập trung vào bất động sản khu công nghiệp, năng lượng,
    logistics, dệt may.… là những động lực chính thúc đẩy nền kinh tế phục hồi. Trong khi đó, khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ không được kỳ vọng sẽ tăng trưởng cao trong năm 2025 do biến động mạnh của môi trường vĩ mô khiến họ ngần ngại mở rộng quy mô kinh doanh.

NIM tăng nhẹ trong năm 2025 và 2026

  • Biên lãi ròng (NIM) trong năm 2024 đạt 2.9%, tăng 2 đcb svck nhờ chi phí vốn
    (COF) giảm mạnh 140 đcb svck. Được đánh giá cao sự ổn định của NIM
    được duy trì kể từ năm 2019. Nhờ COF được kiểm soát tốt nhờ liên hệ chặt chẽ
    đến chính sách tiền tệ của NHNN, NIM của các NHTM quốc doanh tương đối
    ổn định hơn so với các ngân hàng tư nhân, do đó có hiệu suất sinh lời vượt trội
    trong điều kiện vĩ mô khó khăn.

  • Dự báo lãi suất tiền gửi sẽ có xu hướng tăng nhẹ trong nửa đầu năm
    2025 do tăng trưởng tiền gửi năm 2024 thấp hơn nhiều so với TTTD, thắt chặt
    thanh khoản của hệ thống. Trong khi đó, lãi suất cho vay dự kiến sẽ vẫn ở mức
    thấp để thu hút tín dụng. Do đó, NIM của hầu hết các ngân hàng sẽ không tăng trong nửa đầu năm 2025. Đối với nửa cuối năm 2025 và
    năm 2026, dự báo lãi suất cho vay sẽ tăng nhẹ theo nhu cầu tín dụng
    phục hồi. Thị trường bất động sản ấm lên và hoạt động sản xuất tiêu dùng phục
    hồi sẽ dần khuyến khích khách hàng tăng cường vay vốn. Các KH có chất lượng
    thấp hơn nhiều khả năng sẽ chấp nhận lãi suất cho vay cao hơn, giúp NIM của
    các ngân hàng nhích nhẹ vào cuối năm 2025 và 2026. Nhìn chung, ước tính NIM của CTG sẽ đạt 3.0% vào năm 2025 và 3.1% vào năm 2026.
    CASA đóng góp đáng kể vào nỗ lực kiểm soát tốt COF của CTG. Đến cuối năm
    2024, CASA đạt 23.9% (+1.9% svck), top 5 trong số các NHNY. Tỷ lệ KHDN
    trong cơ cấu CASA đạt 57.5% vào cuối năm 2024. Nhờ tỷ trọng lớn của ngân
    hàng doanh nghiệp trong cơ cấu tiền gửi (~50% vào cuối năm 2024). CASA của
    CTG sẽ được đảm bảo trong dài hạn, qua đó tiếp tục góp phần ổn định COF.

Tăng trưởng Non-II tăng tốc trong 2025 nhờ thu nhập phí (NFI) cao hơn

  • Non-II đạt 19,506 tỷ đồng trong năm 2024, tăng 10.9% svck chủ yếu nhờ thu
    nhập khác (+44.6% svck) trong khi các hoạt động khác ghi nhận sự sụt giảm.
    Nhờ tăng cường thu hồi nợ xấu, đạt 8,480 tỷ đồng (+81.5% svck) trong 2024.
    NFI chỉ đạt 6,695 tỷ đồng (-5.9% svck) do chi phí dịch vụ tăng cao. Phí bảo lãnh
    là điểm sáng trong cơ cấu NFI của CTG, tăng 35.1% svck trong khi phí thanh
    toán tăng nhẹ 7.1% svck.

  • Dự đoán rằng các động lực chính của thu nhập ngoài lãi (Non-II) của
    ngành ngân hàng trong 2 năm tới vẫn là thu nhập từ phí và tăng tốc thu hồi nợ
    xấu do những trở ngại liên quan đến hoạt động banca và sự biến động của thị
    trường ngoại hối và chứng khoán do môi trường vĩ mô toàn cầu khó lường.

Chất lượng tài sản được cải thiện được dự báo sẽ hỗ trợ việc trích lập dự phòng thấp hơn trong năm 2025 và 2026

  • Tỷ lệ NPL và nợ nhóm 2 lần lượt là 1.25% và 1.32% vào cuối năm 2024, tăng
    +12 đcb và -23 đcb svck. Nhìn chung, tỷ lệ nợ dưới chuẩn (nhóm 2-5) giảm nhẹ
    11 đcb svck. Trong năm 2024. CTG ghi nhận chi phí trích lập dự phòng là 27,599
    tỷ đồng (+9.9% svck) nhờ mức giảm đáng kể 44.9% svck của Q4/2024. Chi phí
    tín dụng của năm 2024 đạt 1.27%, -8 đcb so với mức 1.35% của năm 2023. Nhờ
    tăng cường trích lập dự phòng trong vài năm trở lại đây, LLR của CTG đã duy trì vị trí top 5 trong số các ngân hàng niêm yết kể từ năm 2021. Tính đến ngày 31/12/2024, LLR đạt 170.7%, +3.5% svck.

  • Theo nhóm KH, NPL của KHCN và KHCN đạt lần lượt là 1.4% và 1.0%. Nợ
    nhóm 5 cuối năm 2024 tăng mạnh 47.5% so với cùng kỳ do tái cấu trúc nợ cho
    một số khách hàng, dẫn đến việc chuyển những khách hàng này sang nhóm nợ
    cao hơn trong thời gian thử thách.

  • Hoạt động xóa nợ xấu được đẩy nhanh trong năm 2024 với số tiền là 18.4 nghìn
    tỷ đồng, giảm 31.1% svck tương đương 8.3 nghìn tỷ đồng. Dư nợ được cơ cấu
    lại theo Thông tư 02/06 là 1.8 nghìn tỷ đồng vào cuối năm 2024, rất thấp so với
    tổng tín dụng và đã trích lập dự phòng 100%. Các khoản vay này tập trung vào
    các ngành như xây dựng, dịch vụ lưu trú và dịch vụ ăn uống. CTG không ghi
    nhận khoản vay được cơ cấu lại theo Thông tư 53 đối với các khách hàng bị
    ảnh hưởng bởi cơn bão Yagi.

  • Với kỳ vọng ngân hàng bán lẻ sẽ đóng góp nhiều hơn vào TTTD trong năm 2025
    và 2026, áp lực NPL tăng mạnh của các ngân hàng sẽ lớn hơn. Nhờ tăng cường trích lập dự phòng trong vài năm trở lại đây, chất lượng
    tài sản của CTG vượt trội so với toàn ngành và vượt kế hoạch. Mặc dù ngành
    ngân hàng được dự báo sẽ phải đối mặt với những thách thức về bất ổn vĩ mô
    toàn cầu và áp lực tăng mạnh của tỷ giá, dẫn đến khả năng làm tăng NPL, kỳ vọng CTG có thể kiểm soát NPL dưới 1.2% dù giảm chi phí tín dụng. Do
    đó, ước tính chi phí trích lập dự phòng tín dụng trong năm 2025/2026
    sẽ tăng nhẹ 1.2% và 6.9% svck với giả định chi phí tín dụng giảm xuống lần lượt
    là 1.12% và 1.05%. Nợ xấu được thu hồi trong năm 2025 dự kiến sẽ đạt khoảng
    9.0 nghìn tỷ đồng, dẫn đến tỷ lệ NPL và nợ nhóm 2 giảm xuống còn 1.08% và
    1.0% vào cuối năm. LLR cũng được nâng cao lên hơn 200% vào cuối năm 2025.

Nhớ like comment ý kiến của mình vè CTG nhé !

lợi nhuận sau thuế năm 2025 dự kiến tăng 30,8% nhờ chi phí tín dụng giảm và thu nhập ngoài lãi phục hồi. Tỷ lệ nợ xấu (NPL) được kỳ vọng giảm xuống 1,1% vào cuối năm 2025, với tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLR) tăng lên 205% .​

Mặc dù triển vọng tăng trưởng của CTG là tích cực, nhưng việc định giá cổ phiếu ở mức P/B cao hơn cần được xem xét cẩn trọng. Hiện tại, P/B của CTG khoảng 1,15x, thấp hơn mức trung bình ngành là 1,3x .

Tuy nhiên, việc nâng mức P/B mục tiêu cần dựa trên các yếu tố như khả năng duy trì tăng trưởng lợi nhuận, kiểm soát nợ xấu và hiệu quả sử dụng vốn. Ngoài ra, môi trường vĩ mô và chính sách tiền tệ cũng ảnh hưởng đến khả năng đạt được các mục tiêu này.

Trong bối cảnh lãi suất và tỷ giá biến động, bạn đánh giá như thế nào về khả năng duy trì NIM và kiểm soát chi phí tín dụng của CTG?

mình thấy CTG vẫn là một trong những ngân hàng hưởng lợi từ môi trường lãi suất thấp nhờ tỷ lệ CASA ổn định và cơ cấu cho vay thiên về khách hàng doanh nghiệp.

Tuy nhiên, rủi ro NIM thu hẹp vẫn tồn tại nếu lãi suất huy động tăng nhanh hơn lãi suất cho vay. CTG đang tập trung vào tăng thu nhập ngoài lãi (fees, bảo hiểm) để bù đắp cho khả năng suy giảm biên lãi.

Về tỷ giá, do CTG ít vay vốn bằng ngoại tệ nên tác động từ biến động tỷ giá là không lớn, nhưng cũng cần theo dõi nếu USD tiếp tục mạnh lên.

cảm ơn bác

thế thì bác nhận định như thế nào về các rủi ro tiềm ẩn có thể ảnh hưởng đến triển vọng tăng trưởng và định giá của CTG trong năm 2025

nói chung ngành nghề nào cũng có rủi ro, ngân hàng nào cũng vậy thôi, nói chung vẫn là những cái rủi ro cũ thôi bác ạ, nói chung rr này thì đều được nhận thức và kiểm soát nên không gì quá đáng ngại nhiều

  • Chính sách tiền tệ đảo chiều (FED giữ lãi suất cao, NHNN siết tín dụng) có thể bóp biên lợi nhuận.
  • Chất lượng tài sản suy giảm nếu kinh tế nội địa phục hồi yếu hoặc rủi ro nợ xấu từ SME tăng lên.

Áp lực trích lập dự phòng nếu một số khoản trái phiếu doanh nghiệp hoặc nhóm khách hàng yếu kém tái cơ cấu nhưng không trả nợ đúng hạn. Cạnh tranh gay gắt từ các ngân hàng tư nhân (MB, ACB, TCB) trong mảng bán lẻ, công nghệ ngân hàng.

cảm ơn bác nhiều nhé, mình cũng hiểu nhiều hơn rồi

dạ không có gì

nghỉ lễ chán quá lên đây hóng thông tin anh em cho đỡ buồn thôi bác kakak