Em post lên để thấy là sự phát triển nội lực của Việt Nam cũng không thua kém gì các nước .
DN ok rồi nhưng Bộ y tế có dám chịu trách nhiệm để đưa vắc xin ra sớm hay không nữa e. C đã từng làm trong lĩnh vực này chị biết, không đủ quy trình thì chưa ký.
Em thấy dòng thuốc bị đẩy lên cao quá. Không biết nội lực của họ còn sức để đẩy tiếp lên nữa không?
Đằng sau chuyến thăm lần đầu của một Phó Tổng thống Mỹ và kỳ vọng Việt Nam thành ‘hub’ sản xuất vaccine khu vực
Tối 20/8 (giờ Mỹ), Phó tổng thống Mỹ Kamala Harris đã lên máy bay để tới Singapore, bắt đầu chuyến thăm Singapore và Việt Nam từ ngày 22/8 đến 26/8. Vì sao lại là Đông Nam Á, và ý nghĩa đằng sau việc Việt Nam là một trong hai điểm đến lần này là gì?
Sau Singapore, Phó Tổng thống Mỹ Kamala Harris sẽ đến thăm Việt Nam 2 ngày. Theo ông, đâu là lý do mà Việt Nam trở thành 1 trong 2 quốc gia được bà Kamala lựa chọn, ngay sau cuộc gặp của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Lloyd Austin tới thăm Việt Nam chưa đây 1 tháng trước?
Việc lựa chọn đến Việt Nam chắc chắn có cả thông điệp về quan hệ song phương, và thông điệp về quan hệ với khu vực. Nếu nhìn toàn bộ cục diện, có thể thấy rằng trong những tháng vừa qua, nước Mỹ đang triển khai chiến lược đối ngoại với thế giới và với châu Á tương đối dồn dập. Sau khi đi châu Âu thì dồn sang châu Á.
Như vậy, thông điệp của Mỹ ở đây chắc chắn là coi trọng và gắn với quan hệ châu Á – Thái Bình Dương. Ngay cả trong chiến lược của Mỹ cũng nêu rõ, Mỹ sẽ quay trở lại và hợp tác với các nước thông qua cả cơ chế đa phương lẫn cơ chế song phương.
Việc thứ hai, trong chiến lược của Biden nói rất rõ rằng, nước Mỹ trở lại, nhưng trở lại quan hệ và tham vấn nhiều hơn với các đối tác trong những sứ mệnh chung về hoà bình, an ninh, hợp tác và phát triển.
Vậy tại sao, chuyến đi lần này của bà Phó Tổng thống, rồi chuyến đi trước đó của ông Bộ trưởng Bộ Quốc phòng lại chọn Đông Nam Á, mà trong Đông Nam Á thì lúc nào cũng có Việt Nam?
Chọn Đông Nam Á thì rõ ràng có câu chuyện ASEAN. Nước Mỹ dưới thời Biden coi trọng ASEAN, ASEAN như là một trụ cột không chỉ ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, mà còn là cấu trúc xây dựng những môi trường hoà bình, ổn định và hợp tác phát triển dựa trên luật lệ của khu vực này. Và rõ ràng, trong ASEAN thì người ta coi trọng vai trò của Việt Nam.
Trong vai trò của Việt Nam, có lẽ phải nhấn mấy điểm. Một là quan hệ Việt – Mỹ trong chiều dài từ thời ông Obama và đến thời kỳ của ông Biden, vẫn tiếp tục đà phát triển mạnh mẽ trên tất cả các mặt.
Đà quan hệ hai bên đang rất tốt, đặc biệt là từ đầu năm đến nay, có thể điểm lại hồi tháng 2, ông Biden đã có thư chúc mừng Tổng Bí thư Việt Nam và Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam XIII thành công, rồi liên tục có những cuộc tham vấn giữa Bộ trưởng Ngoại giao 2 nước.
Bên cạnh đó, phía Mỹ cũng mời Việt Nam dự Hội nghị thượng đỉnh trực tuyến về khí hậu, là minh chứng cho thấy coi trọng nỗ lực và vai trò của Việt Nam.
Tiếp theo, khi lựa chọn Việt Nam cũng cho thấy thông điệp về vị thế của Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á, và cả Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương này.
Quay trở lại thông báo của Nhà trắng khi nói về chuyến thăm từ ngày 30/7, họ đã nhấn mạnh, chuyến đi này là thể hiện sự coi trọng khu vực Đông Nam Á, từ đó cùng nhau phấn đấu xây dựng một trật tự dựa trên luật lệ vì hoà bình, an ninh, phát triển ở cả khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Điểm thứ hai, coi trọng Đông Nam Á, nhưng đến hai nước mà họ đã dùng từ “critical”, là hai nước đối tác rất quan trọng của Mỹ và trong nỗ lực chung vì hoà bình, an ninh và phát triển ở khu vực này.
Kể từ khi 2 nước bình thường hoá quan hệ năm 1995, chỉ có các Tổng thống Mỹ thăm Việt Nam như các ông Bill Clinton, George Bush, Barack Obama và Donald Trump. Nhưng đây là lần đầu tiên một Phó Tổng thống Mỹ đến thăm Việt Nam. Điều này có ý nghĩa gì thưa ông?
Đúng là từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đến nay, thì quan hệ hai nước ngày càng phát triển. Về kinh tế, những năm 1995, thương mại hai nước chỉ mới có nửa tỷ USD, nhưng đến 2020-2021, con số này đã lên hơn 90 tỷ USD, tức là tăng lên khoảng 180 lần. Các nhà đầu tư, doanh nghiệp Mỹ cũng liên tục coi thị trường Việt Nam là điểm đến tiềm năng, và thực sự trong thời gian vừa qua, họ đã đến đây và làm ăn rất nhiều.
Cái việc thứ hai là trong trao đổi, thăm viếng cấp cao là cả từ hai chiều. Việc Mỹ, một nước lớn, ở bên kia bán cầu mà đến Việt Nam liên tục trong cả 4 đời tổng thống vừa qua thể hiện sự coi trọng. Nhưng phía Việt Nam cũng có nhiều đoàn cấp cao sang. Năm 2013, Tổng thống Hoa Kỳ khi ấy là Barack Obama đã đón Chủ tịch nước Việt Nam sang thăm, rồi năm 2015, một sự kiện lịch sử khi lần đầu tiên, Tổng thống Mỹ mời, đón và ra tuyên bố tầm nhìn với Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam.
Như vậy lần này, việc một Phó Tổng thống Mỹ sang Việt Nam, chúng ta phải nhìn lại đó là chuỗi nối tiếp những câu chuyện trao đổi cấp cao giữa hai bên.
Thứ hai, chúng ta thường nghĩ giữa tổng thống và phó tổng thống thì tổng thống vẫn quan trọng hơn, đúng không? Nhưng chúng ta quên mất đây là chuyến đi ngay trong những tháng đầu của nhiệm kỳ. Đây cũng là lần đầu tiên cấp cao của Mỹ đến khu vực này, chứ trước đây tổng thống hay phó tổng thống Mỹ đến châu Á – Thái Bình Dương, thì thường phải đến đồng minh lớn của Mỹ trước, chứ chưa đến riêng Đông Nam Á mà lại ngay đầu nhiệm kỳ như thế này đâu.
Kể từ khi ông Biden nhậm chức thì đến bây giờ mới là 7 tháng cầm quyền, rồi tình hình dịch bệnh Covid-19, cộng với việc đang hoạch định chính sách chiến lược chung, rồi hoạch định những ưu tiên ở trong đối nội, hoạch định chiến lược chung về đối ngoại. Bản thân ông Biden mới có chuyến đi đầu tiên ra bên ngoài là châu Âu.
Như vậy, với khu vực châu Á – Thái Bình Dương, bà Kamala Harris lại chọn Đông Nam Á, trong đó lại có Việt Nam là cực kỳ quan trọng. Không chỉ có vậy, rõ ràng sẽ có một chương trình nghị sự rất thực chất trải dài từ những vấn đề là khu vực, cùng nhau đóng góp xây dựng trật tự dựa trên luật lệ vì hoà bình hợp tác. Trong song phương thì có cả câu chuyện kinh tế, có cả câu chuyện thương mại, rồi có cả câu chuyện giao lưu văn hoá, biến đổi khí hậu và phòng chống dịch bệnh.
Bloomberg đưa tin rằng vấn đề thiếu hụt chất bán dẫn sẽ là một trong những trọng tâm chuyến đi của Phó Tổng thống Kamala Harris. Liệu đây có phải là lời khẳng định cho vị thế của Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu?
Thực tế, trong thương mại, chuyến đi lần này của bà Kamala Harris không chỉ có câu chuyện về chất bán dẫn. Đầu tiên sẽ phải nói đến việc đứt gãy chuỗi cung ứng do đại dịch, cùng với điều chỉnh ưu tiên mới của nước Mỹ, bao gồm tập trung vào sản xuất trong nước, cạnh tranh Mỹ - Trung và những lĩnh vực tránh bị phụ thuộc vào chỉ một thị trường.
Trong chuyến đi này là thông điệp với cả Việt Nam, Singapore và với khu vực. Việt Nam được đề cập đến chắc chắn đồng nghĩa với việc Mỹ đã có phần là đánh giá năng lực Việt Nam ở đây. Nhưng cái thứ hai, quan trọng hơn, nếu Việt Nam muốn chủ động đón nhận làn sóng này, thì cần phải soi lại ít nhất 3 khung.
Một là khung chính sách. Cần phải chuẩn bị khung chính sách để đón như nào, khung pháp luật để đón ra sao, khung khuyến khích như thế nào.
Thứ 2 là hạ tầng. Trước hết là hạ tầng về công nghệ, về sản xuất linh kiện, sản xuất chất bán dẫn, của Việt Nam đã phù hợp và đủ đáp ứng chưa, nếu thiếu, thì sẽ bổ khuyết tranh thủ như thế nào, xây dựng ra sao?
Thứ 3 nữa là nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực, cả lao động và quản lý, đã đủ điều kiện, kỹ năng chưa, có kịp đào tạo, chuẩn bị không?
Thực tế, vào lúc này, chúng ta cũng phải đối mặt với cạnh tranh ngay trong khu vực, bởi vậy nên càng cần sự chuẩn bị. Dịch chuyển chuỗi cung ứng không phải câu chuyện ngay lập tức, mà chuỗi cung ứng dịch chuyển theo quy luật kinh tế. Chính trị có thể hỗ trợ, giúp tác động thuận lợi hơn, nhưng vẫn phải tuân theo quy luật kinh tế. Bởi vậy, khi điểm đến không cho thấy cái thuận, hấp dẫn về năng lực sản xuất, hay hạ tầng và nguồn nhân lực, hoặc về khung chính sách, chưa đủ đảm bảo, thì họ cũng sẽ rời đi.
Việt Nam là một điểm hấp dẫn, Việt Nam có năng lực, nhưng sự cạnh tranh ngay trong khu vực này cũng rất quyết liệt.
Chuyến đi lần này của bà Kamala Harris có thể sẽ đem đến một hiệp định thương mại số với Singapore. Bản thân quốc gia này cũng đã đạt được khá nhiều thoả thuận với Úc, Chile, và New Zealand. Vậy liệu Việt Nam có đạt được thoả thuận nào với Mỹ trong khuôn khổ chuyến thăm lần này không?
Rõ ràng là quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ sau chuyến đi lần này sẽ phải đẩy lên. Hai bên đang có đà rất tốt, đã vượt qua con số 90 tỷ USD và đang hướng tới 100 tỷ USD. Mỹ cũng là thị trường xuất khẩu lớn nhất Việt Nam.
Tuy nhiên, các khung hợp tác kinh tế thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, hay cả những hiệp định song phương giữa hai bên đã từ lâu lắm rồi. Do vậy, cần phải cập nhật mới để thuận lợi hoá hơn hoạt động kinh tế, thương mại giữa hai nước.
Tôi cho rằng, hãy căn cứ vào lợi ích của Việt Nam để xem Việt Nam có thể tiếp cận câu chuyện thương mại số này như thế nào. Nhưng cá nhân tôi nghĩ rằng mình nên chủ động tiếp cận, tại sao?
Một là về mặt chính sách, Việt Nam đang rất đề cao câu chuyện cách mạng 4.0 và chuyển đổi số. Thứ hai, Việt Nam đã tham gia những hiệp định thương mại chất lượng cao, tiêu chuẩn cao, trong đó có EVFTA, CPTPP.
Thương mại số là cái mới, nhưng tương lai lại rất quan trọng. Vì vậy, chúng ta cần chủ động. Đã đến lúc chúng ta rà soát kỹ lại, khung chính sách trong nước, cam kết FTA quốc tế đã có và lợi ích quốc gia, từ đó thấy cái gì là ưu tiên của mình, thì chủ động chuẩn bị, tham gia hợp tác, nếu cần, cũng phải cập nhập, sửa đổi chính sách hiện hành.
Ngoài những bước đi trong thương mại số song phương với Hoa Kỳ, tôi cho rằng lần này mang thương mại số đến trong chuyến thăm Việt Nam và Singapore không chỉ vấn đề song phương. Đây là sự kết nối của Hoa Kỳ khi “vắng mặt” về TPP mà họ vẫn chưa trở lại được.
Cuối năm 2020, Mỹ gắn mác thao túng tiền tệ với Việt Nam và Thụy Sĩ. Khi chính quyền ông Biden lên, mới đây Mỹ và Việt Nam đạt thỏa thuận xử lý vấn đề “thao túng tiền tệ”, Mỹ quyết định không áp dụng bất kỳ biện pháp hạn chế thương mại nào với Việt Nam. Bà Kamala Harris cũng sang thăm Việt Nam đúng vào lúc này, liệu có phải chỉ là trùng hợp?
Tôi không cho đó là trùng hợp. Đây là quyết định cả về chuyên môn, kinh tế-tài chính, cả về cân đối lợi ích và lòng tin, đó là kết quả của cả quá trình tham vấn hai bên, hiểu nhau, hiểu chính sách của VN, từ đó đã tìm ra giải pháp phù hợp. Câu chuyện, nhìn rộng ra và dài hơn về thời gian, từ thời Tổng thống Trump, hai bên cũng đã tham vấn, xử lý tồn tại, như về vấn đề thâm hụt thương mại, vốn là một trong những ưu tiên hàng đầu của chính quyền Trump.
Tôi không phải là nhà kinh tế, nhưng qua thời gian được lắng nghe và tham gia trao đổi trước đây giữa hai bên, thì đối với Việt Nam, mục tiêu lớn nhất liên quan đến quản lý đồng tiền là ổn định kinh tế vĩ mô, chứ không phải là dùng quản lí đồng tiền để làm sai lệch, giảm giá hàng hóa và cạnh tranh bất bình đẳng về thương mại. Không có cái đó.
Đặc biệt, ổn định đồng tiền là ổn định đồng tiền Việt Nam, chứ không phải tác động tới đồng tiền chuyển đổi là đồng USD. Đến thời ông Biden, chúng ta đã liên tục trao đổi và nói rõ thiện chí của Việt Nam, về quản lý thương mại, chính sách tiền tệ, chứng minh rằng không có gian lận, không làm méo mó thương mại.
Do vậy mới dẫn đến đàm phán, tham vấn giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cùng Bộ Tài chính Mỹ, và hai bên đạt được thoả thuận. Như vậy, hai bên cũng đã hiểu nhau hơn, khi tham vấn đều tìm được giải pháp, cũng như minh bạch thông tin.
Trên thực tế thì vấn đề thao túng tiền tệ được xử lý trước đó vài ba ngày, khi ông Lloyd Austin sang Việt Nam. Khi đó thì cũng chưa công bố tin về chuyến thăm của bà Kamala Harris, bởi đến ngày 27 mới bắt đầu tiết lộ, mà chính thức ngày 30/7 Mỹ mới thông báo.
Theo CNBC, trong chuyến đi lần này, “chính quyền Biden muốn làm rõ rằng họ hợp tác với Đông Nam Á để giải quyết vấn đề, bao gồm cả Covid-19. Mỹ cũng sẽ nhấn mạnh rằng những vấn đề này chỉ có thể giải quyết bằng quan hệ đối tác và sự cam kết của các bên”. Điều này có phải nói về công nghệ chuyển giao vaccine Mỹ vừa chuyển giao cho Việt Nam tuần qua, hay những cam kết phân phối vaccine cho Việt Nam?
Câu chuyện về vaccine thì có 3 khía cạnh. Đầu tiên là vaccine từ viện trợ của Mỹ, các nước khác cũng có. Thứ hai là vaccine mua từ các công ty sản xuất, thì đấy là mô hình thương mại. Thứ 3 là cái rất quan trọng, chuyển giao công nghệ, chủ yếu là qua công ty.
Mỹ bắt đầu viện trợ vaccine cho các nước từ tháng 4 năm nay, nhưng đã cam kết ngay số lượng lớn, lại cho miễn phí, lên đến 500 triệu liều. Riêng ở khu vực Đông Nam Á, Mỹ cũng đã cung cấp đến tay là 23 triệu liều, trong đó Việt Nam là 5 triệu liều, đứng thứ 3 Đông Nam Á.
Việc hỗ trợ chính thủ đương nhiên là phải xét đến 2 yếu tố: quan hệ tốt và nhu cầu khẩn cấp. Như vậy, trong chuyến thăm lần này, vaccine là việc quan trọng trong các trao đổi giữa hai bên, tôi tin rằng Mỹ đã và tiếp tục cam kết giúp thêm cho Việt Nam.
Về thương mại, Chính phủ Việt Nam cũng đã đạt được nhiều thoả thuận mua vaccine từ các công ty. Các kênh thương mại này vẫn cần phải tận dụng.
Điểm cuối cùng, như tôi đã nói là yếu tố quan trọng hơn cả, và cần phải tranh thủ, đó là chuyển giao công nghệ. Vừa rồi thì Vingroup đã ký kết với Arcturus chuyển giao công nghệ và bắt đầu thử nghiệm lâm sàng.
Như vậy, câu chuyện không chỉ dừng ở việc liệu Chính phủ Hoa Kỳ có thể hỗ trợ được bao nhiêu, mà còn là việc sản xuất vaccine công nghệ mới ở Việt Nam, phục vụ cho thị trường Việt Nam. Từ đó, chúng ta có thể trở thành hub (trung tâm) sản xuất vaccine trong khu vực.
Hai bên cũng nên bàn, trong chuyến thăm lần này của bà Kamala Harris, nên hợp tác thế nào để Việt Nam trở thành một mắt xích của khu vực, về phân phối, sản xuất, cung ứng vaccine phòng Covid-19. Rồi vật tư y tế, cũng nên có cả sự kết hợp giữa cả tư nhân và chính phủ, để tạo ra các chuỗi liên kết khu vực như vậy, có lợi cho Mỹ, Việt Nam và cả khu vực.
Trước đây, Singapore cũng là hub của nhiều thứ, Thái Lan cũng là mắt xích rất quan trọng trong chuỗi cung ứng ô tô Nhật Bản và Mỹ. Thế thì lúc này, vaccine, y tế Việt Nam đang có thế mạnh. Chúng ta có đội ngũ bác sỹ, trình độ quản lý kỹ thuật, phương tiện được chuyển giao công nghệ, cộng với sự hỗ trợ về mặt tài chính và chính trị, từ đó có thể làm hub khu vực, tạo thành chuỗi cung ứng ở đây.
Năm 2020, nhiều nguyên thủ quốc gia các nước như Lào, Hàn Quốc hay Nhật Bản cũng đã sang thăm Việt Nam trong bối cảnh dịch bệnh phức tạp. Tuy nhiên, đó cũng là giai đoạn Việt Nam được đánh giá là quốc gia hiếm hoi chống dịch thành công. Nhưng tình hình đã thay đổi khá nhiều, vì sao Bộ trưởng Bộ Quốc phòng hay hiện tại là Phó Tổng thống Mỹ vẫn lựa chọn Việt Nam?
Đúng là năm ngoái chúng ta có một loạt chuyến thăm. Nhưng cũng phải nhìn thấy rằng năm nay, ngay cả lúc dịch bệnh như này, vẫn có một loạt chuyến thăm, cấp bộ trưởng, rồi có cấp cao của Lào. Giờ là chuyến thăm của Phó Tổng thống Mỹ.
Từ Chủ tịch nước Lào, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Trung Quốc, Bộ trưởng Ngoại giao Singapore, Bộ trưởng Ngoại giao Hàn Quốc, rồi đến Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ. Lần này, câu chuyện mà người ta đến Việt Nam không phải chỉ an toàn về dịch bệnh có bảo vệ được họ hay không, mà quan trọng nhất là ở 2 điểm.
Đầu tiên, các nước đang nhìn Việt Nam là đối tác gắn với lợi ích quốc gia của họ, có thể là song phương, có thể trong khu vực, nhiều chiều.
Thứ hai, trong tất cả các lần khủng hoảng, từ năm 1997-1998 về tài chính đông Nam Á, rồi xung quanh 2008-2009 là khủng hoảng tài chính Mỹ, đến lần này là khủng hoảng về đại dịch, thì đây là giai đoạn sức chống chịu của nền kinh tế Việt Nam vững vàng nhất.
Điều này không phải do họ chỉ nhìn vào hiện tại, mà còn là tương lai. Họ nhìn thấy Việt Nam ở năng lực và đà phát triển hậu dịch, sẽ vẫn là câu chuyện kinh tế năng động và hấp dẫn. Lần này thực sự là khó khăn, thách thức chưa từng có, sau dịch cũng còn không ít khó khăn, nhưng rõ ràng năng lực và sức chống chịu của Việt Nam cũng đã khác. Đó là người ta đặt niềm tin, mình càng cần làm tốt hơn nữa.
Chính quyền Tổng thống Joe Biden nhấn mạnh việc tăng cường quan hệ ngoại giao với các quốc gia trong khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Cùng với việc bà Kamala Harris sang thăm Việt Nam, vị thế của Việt Nam có gì khác trước?
Chúng ta cần xét 3 yếu tố. Thứ nhất là yếu tố Hoa Kỳ: Chính quyền mới lên có gì thay đổi không? Thứ hai là sự chuyển dịch trong khu vực. Thứ 3 là vị thế của Việt Nam.
Đầu tiên, Hoa Kỳ tiếp tục coi trọng các quốc gia trong khu vực, vẫn gắn kết với khu vực. Nếu nhìn lại, đây vẫn là khu vực phát triển năng động nhất, vẫn đẩy mạnh liên kết, tự do hoá thương mại, trong khi thế giới có xu hướng hướng nội, gia tăng bảo hộ, phản bác toàn cầu hoá.
Khi ông Biden lên, chính quyền mới của nước Mỹ, vừa có cái mới, vừa có cái kế thừa, so với thời Tổng thống Trump, hay cả Tổng thống Obama. Cái chung là vẫn coi trọng và gắn kết với khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Rồi vẫn tiếp tục cạnh tranh Mỹ - Trung. Nhưng cách tiếp cận, mức độ và nội hàm thì có nhiều cái khác, rất khác.
Một ví dụ là, ông Biden trở lại tham vấn, ngoại giao truyền thống, coi trọng đẩy mạnh các quan hệ đối tác. Hay cạnh tranh với Trung Quốc, vẫn cạnh tranh và có khi còn quyết liệt hơn, nhưng cũng nói rõ, muốn cùng Trung Quốc quản trị quan hệ một cách trách nhiệm.
Vậy nên, giữa hai nước, khác biệt, nhưng vẫn đối thoại, như câu chuyện Mỹ - Trung Quốc gặp gỡ các quan chức cấp cao đầu tiên tại Alaska hồi tháng 3, rồi đến cuộc gặp Mỹ - Trung lần thứ hai, vừa diễn ra mới đây tại Thiên Tân (Trung Quốc).
Ngay cả trong bài phát biểu của ông Lloyd Austin có thể thấy rõ, cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung vẫn tiếp tục, với 3 phương châm là cạnh tranh khi cần thiết, hợp tác khi có thể, và đối nghịch khi bắt buộc. Nhưng Mỹ cũng muốn quản trị quan hệ hai nước một cách có trách nhiệm, mang tính ổn định và xây dựng, cạnh tranh với nhau nhưng không để xảy ra khủng hoảng.
Đối với cục diện châu Á – Thái Bình Dương, nguyên tắc và lợi ích chung là, nước nào cũng cần về hợp tác, bảo đảm hòa bình, ổn định, tuân thủ luật pháp quốc tế, thúc đẩy hội nhập và tự do hóa thương mại. Rồi, cũng nhiều cái cần hợp tác về các thách thức chung, như về biến đổi khí hậu, về dịch bệnh, cũng như về an ninh, an toàn, tự do hàng hải, câu chuyện về biển Đông. Như vậy, khu vực vừa có cơ hội, vừa có thách thức. Cái chính là cùng nhau hợp tác và bảo đảm tôn trọng luật pháp quốc tế. Đây là cái chung, song trùng lợi ích, Việt Nam, ASEAN cũng vậy.
Một điểm đáng chú ý, trong khu vực, các nước lớn đều ủng hộ ASEAN, cơ sở để tạo ra khung lớn hơn cho hợp tác khu vực. ASEAN, dù không có sức mạnh cứng hay về kinh tế như các nước lớn, nhưng lại là nhân tố kết nối, đóng vai trò thúc đẩy các nước, trong và ngoài khu vực, nhưng khi đến đây, đều sẵn sàng chia sẻ và hợp tác dựa các quy tắc ứng xử, các quan điểm của ASEAN.
Vai trò của ASEAN vì vậy ngày càng quan trọng hơn. Và trong ASEAN, Việt Nam cũng là một nhân tố quan trọng. Người ta hay nói đến cụm từ “cân bằng” trong quan hệ với Mỹ và Trung Quốc. Cá nhân tôi không thích từ này.
Nguyên tắc là mình cần và muốn quan hệ tốt với cả hai bên. Nhưng nói cân bằng, thì thực tế làm sao có cân bằng 50:50 được. Nói cân bằng, dễ bị rơi vào việc, khi quan hệ với nước khác, lại cứ phải nhìn anh này anh kia. Trong quan hệ, lại có cái đúng sai, lúc anh này đúng, anh kia sai, và ngược lại, thì khi đó ta phải lên tiếng chứ. Cái gốc phải dựa vào chính là lợi ích quốc gia và luật pháp quốc tế. Từ đó mà suy xét quan hệ. Rồi quan hệ, hợp tác đến đâu, còn do sự song trùng lợi ích của hai bên.
Lấy ví dụ biển Đông. Không phải là chuyện Mỹ hay Trung Quốc, mà biển Đông phải soi vào lợi ích quốc gia, luật pháp quốc tế, mà soi xét. Nếu là ủng hộ các nguyên tắc, như luật pháp quốc tế, Công ước Luật biển, an ninh, an toàn, tự do, hàng hải hàng không, bác bỏ các hành vi áp đặt, xâm phạm vùng biển hợp pháp của các nước, thì phải ủng hộ chứ.
Vừa rồi, Bộ Ngoại giao Mỹ ra tuyên bố nhân 5 năm phán quyết của toà tài, cũng nhấn mạnh nhiều nội dung như vậy. Khi đó, có ủng hộ là ủng hộ các nguyên tắc phù hợp với luật pháp quốc tế, quan điểm chung của ASEAN, chứ không phải đứng về bên này, bên kia.
Như ngày 13/7 năm ngoái, Bộ Ngoại giao Mỹ đã ra tuyên bố bác bỏ gần như mọi tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc ở biển Đông, nhấn mạnh về an ninh, an toàn, tự do, hàng hải hàng không. Việt Nam ủng hộ những nguyên tắc này không phải do Mỹ, mà do nó là lợi ích quốc gia và pháp luật quốc tế đã quy định.
Cuối cùng, ông kỳ vọng gì về mối quan hệ giữa hai nước sau chuyến thăm lần này của bà Kamala?
Có 2 điểm tôi kỳ vọng. Thứ nhất là sự gắn kết của Mỹ về thương mại với khu vực. Cần phải song hành cả trụ cột kinh tế, khi không có được TPP, thì phải có cách thức khác với khu vực. Các sáng kiến về chuỗi cung ứng, công nghệ, hay thương mại số với khu vực, đều cần được quan tâm, thúc đẩy.
Việt Nam có vị thế, năng lực và lợi ích để tham gia vào các nỗ lực khu vực chung như vậy. Còn về quan hệ kinh tế song phương, hơn hai thập kỷ qua, khi hai nước ký Hiệp định thương mại (BTA), thì nhiều thứ đã thay đổi căn bản rồi. Từ kinh tế thương mại hai nước, đến phát triển và hội nhập của Việt Nam, đến cộng đồng đông đảo các doanh nghiệp Mỹ đầu tư, làm ăn tại Việt Nam, tất cả đều đã phát triển gấp bội.
Hiện cũng có nhiều cơ hội, như về chuỗi cung ứng, công nghệ, năng lượng, hay về vaccine, y tế, từ hợp tác hai bên, đến kết nối với khu vực. Rõ ràng, đã đến lúc, hai nước cần rà soát và cập nhật khung chính sách thương mại giữa hai nước cho phù hợp và phục vụ tốt hơn lợi ích của cả hai bên.
Kỳ vọng thứ hai, đúng hơn là mong muốn, đó là câu chuyện định danh cho quan hệ đối tác của hai nước. Nếu được hỏi, chắc chắn có thể trả lời rằng, quan hệ hợp tác Việt Nam – Hoa Kỳ thực chất đã ở tầm chiến lược rồi, bao gồm cả tính chiến lược và tính toàn diện. Định danh đối tác chiến lược vừa đúng với tầm phát triển của quan hệ nước, vừa phù hợp với chính sách đối ngoại độc tập tự chủ, đa dạng hoá của Việt Nam.
Đây là xem xét từ góc độ vì lợi ích Việt Nam và lợi ích chung của quan hệ. Mặt khác, cũng sẽ là xứng đáng và tương đồng với quan hệ của Việt Nam với các nước khác, nhất là khi nhìn lại danh sách đối tác chiến lược Việt Nam thì có gần tới 20 nước, gồm các nước như Đông Nam Á, Trung Quốc, Nga, Nhật Bản, Ấn độ, đến Úc, New Zealand, Hàn Quốc, Pháp, Anh, Ý, Tây Ban Nha… Như vậy thiếu hụt một đối tác rất quan trọng là Mỹ - một trong những trung tâm kinh tế, chính trị hàng đầu, một trong 5 nước là Uỷ viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc.
Dù đây là chỉ là vấn đề định danh, bởi thực chất quan hệ hai bên đã đạt tầm chiến lược rồi. Nhưng, đặt cho đúng cái tên, cũng cần lắm chứ. Cũng là nhân có chuyến thăm cấp cao, nên càng mong rằng vấn đề sẽ được hai bên bàn và có lộ trình để sớm đạt được việc này.
Bài: Quỳnh Lê
Ảnh: Tuấn Mark - tổng hợp
Chân dung Phó Tổng thống Mỹ đầu tiên thăm Việt Nam: Người phụ nữ của “những điều chưa bao giờ” mang làn gió mới đến chính trường Mỹ
THỨ 2, 23/08/2021, 12:30
Việc liên minh tranh cử của ông Joe Biden cùng bà Harris dành chiến thắng trong cuộc đua vào Nhà Trắng đã trở thành nguồn cảm hứng dành cho hàng triệu người trên nước Mỹ và cả thế giới. Lần đầu tiên một phụ nữ da màu trở thành Phó Tổng thống.
Trong chiến dịch tranh cử Tổng thống Mỹ năm 2020, bà Kamala Harris đã vượt qua những thành viên sáng giá nhất của Đảng Dân chủ như Elizabeth Warren để trở thành ứng viên hàng đầu cho vị trí Phó Tổng thống. Ngày 20/1, liên minh tranh cử của ông Joe Biden chính thức giành chiến thắng trong cuộc đua vào Nhà Trắng và theo đó bà Harris cũng chính thức được xướng tên với vị trí Phó Tổng thống Mỹ.
Ở thời điểm ấy, việc bà đắc cử Phó Tổng thống đã trở thành khoảnh khắc lịch sử. Bà là người có nguồn gốc Jamaica và Ấn Độ, người da màu, người Mỹ gốc Ấn và cũng là người phụ nữ đầu tiên đảm nhiệm vị trí này.
Thậm chí, một phóng viên kỳ cựu của MSNBC đã so sánh sự thành công của bà giống như “vết nứt trên trần nhà” - một thứ tưởng chừng rất nhỏ bé nhưng có thể ảnh hưởng sâu rộng tới bức tranh chính trị tại Mỹ.
Trả lời phỏng vấn của Time, Leighann Blackwood - một cử tri của Georgia, cho biết: “Tôi nhận ra rằng chúng tôi sẽ không chỉ có một nữ Phó Tổng thống, mà còn là một nữ Phó Tổng thống da màu. Với những thành tựu của bà Harris, tôi không nghĩ khoảnh khắc này sẽ mất nhiều thời gian đến như vậy nhưng những gì bà ấy làm được thực sự truyền cảm hứng!”
Bà Harris sinh năm 1964 tại Oakland (California). Mẹ bà, Shyamala Gopalan, là một nhà khoa học ung thư vú di cư từ Tamil Nadu, Ấn Độ, năm 1960 để theo học tiến sĩ ngành nội tiết học tại UC Berkeley. Cha bà, Donald J. Harris, là một giáo sư danh dự chuyên ngành kinh tế của Đại học Stanford, nhập cư từ Jamaica năm 1961 để học kinh tế tại UC Berkeley. Đều là người nhập cư, cha mẹ bà luôn đấu tranh vì nhân quyền.
Năm bà 7 tuổi, cha mẹ bà ly hôn sau đó chuyển đến Montreal (Canada) sống cùng mẹ và em gái. Năm 13 tuổi, bà và em gái Maya đã tổ chức một cuộc biểu tình trước tòa nhà chung cư nơi họ đang sống để phản đối chính sách cấm trẻ em vui chơi trên cỏ.
Người phụ nữ quyền lực này lớn lên với sự ảnh hưởng sâu sắc của mẹ cùng nền tảng tư duy từ cha. Theo đó, xuất thân trong một gia đình nhập cư là chủ đề được Harris nhắc đến như một thông điệp trong thời gian bà tuyên bố tranh cử. Ngoài ra, bà cũng thường xuyên nhắc về mối quan hệ thân thiết, tầm ảnh hưởng đến tư tưởng cũng như sự nghiệp từ người mẹ gốc Ấn.
Harris tốt nghiệp Đại học Howard năm 1986 và học luật tại Đại học Hastings, Đại học California năm 1989. Bà bắt đầu sự nghiệp với vai trò là phó luật sư hạt Alameda, California, trước khi trở thành luật sư quận San Francisco. Từ đây, con đường chính trị của bà cũng chính thức bắt đầu.
Năm 2010, luật sư Harris đã vượt qua đối thủ đảng đến từ Cộng hòa với kết quả sát sao để trở thành Tổng chưởng lý California. 6 năm sau, bà được bầu vào Thượng viện và trở thành phụ nữ người Mỹ gốc Phi thứ hai và gốc Nam Á đầu tiên từng đảm nhiệm vị trí này.
Trong khoảng thời gian giữ chức vụ Tổng chưởng lý bang California, bà đã thu hút sự chú ý từ nghị sĩ các đảng Dân chủ quốc gia, bao gồm cả cựu Tổng thống Barack Obama. Ở “quê nhà” California, bà Harris được đánh giá là một công tố viên sắc sảo nhưng cũng đầy thận trọng.
Trong sự nghiệp của mình, bà Harris có quan điểm ủng hộ kiểm soát súng đạn, cộng đồng LGBT, chính sách bảo hiểm y tế cho tất cả mọi người… Do có sự tương đồng trong việc tiếp cận các vấn đề xã hội và từng theo học trường luật, bà thậm chí được nhiều người gọi là “Obama phiên bản nữ”.
Là một thượng nghị sĩ, bà ủng hộ cải cách y tế, hợp pháp hóa cần sa, hỗ trợ trao quyền công dân cho người nhập cư không có giấy tờ, đạo luật DREAM, cấm vũ khí tấn công, và cải cách thuế lũy tiến. Sự chú ý của các cử tri Mỹ hướng đến bà nhiều hơn sau khi đặt ra những câu hỏi thẳng thắn cho quan chức chính quyền cựu Tổng thống Donald Trump trong những phiên điều trần tại Thượng viện. Ngoài ra, bà cũng ủng hộ việc thực hiện chương trình giáo dục dành cho những tội phạm buôn bán ma túy lần đầu, tạo cơ hội để họ “làm lại cuộc đời”.
“Danh tiếng” của bà Harris càng được nâng cao nhờ những câu hỏi chất vấn ông Brett Kavanaugh - lựa chọn gây tranh cãi của Tổng thống Donald Trump cho vị trí thẩm phán Tòa án Tối cao Mỹ, cũng như Tổng công tố liên bang William Barr tại các phiên điều trần ở Thượng viện hay cựu Bộ trưởng Tư pháp Jeff Sessions và cấp phó Rod Rosenstein của ông. Thậm chí, ông Sessions còn thừa nhận trong một phiên điều trần rằng cách đặt câu hỏi của bà Harris khiến ông “lo lắng”.
Nhìn chung, bà Harris đại diện cho lớp chính trị gia mang nhiều quan điểm hiện đại, mới mẻ và có khả năng kết nối những người trẻ tuổi trong đảng. Hơn nữa, bà cũng được đánh giá là người có quan điểm thực tế, ôn hoà hơn so với các chính trị gia lâu năm của đảng Dân chủ như Bernie Sanders và Elizabeth Warren.
Ngày 7/11, khi các tờ báo lớn của Mỹ đồng loạt “xướng tên” ông Joe Biden đã chính thức đắc cử Tổng thống Mỹ, thì thành tích của bà Harris cũng đánh dấu rất nhiều lần đầu tiên của bà trong lịch sử chính trường Mỹ. Bà Harris đã trở thành phụ nữ Mỹ gốc Phi đầu tiên và cũng là phụ nữ gốc Á đầu tiên trở thành Phó Tổng thống Mỹ.
Câu chuyện về cuộc sống cũng như sự nghiệp của bà Harris đã truyền cảm hứng cho rất nhiều người, đặc biệt là phụ nữ. Trong bài phát biểu mừng chiến thắng hồi tháng 11, bà cho biết: “Mọi bé gái đang theo dõi tôi phát biểu tối nay sẽ thấy rằng Mỹ là một đất nước của những cơ hội. Với tất cả những đứa trẻ, bất kể giới tính, đất nước đã gửi một thông điệp rất rõ ràng: Hãy ước mơ và tham vọng, với niềm tin và nhìn nhận bản thân theo cách mà người khác không thấy được, đơn giản là vì họ chưa bao giờ thấy điều đó. Hãy biết rằng chúng tôi luôn hoan nghênh các bạn trên mọi con đường”
Bà Donna Brazile - cựu Chủ tịch Ủy ban Quốc gia Đảng Dân chủ - phát biểu trên kênh truyền hình Fox News hồi tháng 11 về chiến thắng của bà Harris. “Tôi đã chờ đợi khoảnh khắc này rất lâu rồi. Hãy để những người phụ nữ cùng chia sẻ vai trò lãnh đạo của đất nước này.”
Hồi tháng 4, bà Harris và Chủ tịch Hạ viện Nancy Pelosi đã cùng nhau tạo ra một khoảnh khắc cực kỳ đặc biệt, đó là lần đầu tiên đứng sau Tổng thống Biden trong 1 bài phát biểu sẽ là 2 người phụ nữ. Theo CNN, 2 chính trị gia ngồi ghế đằng sau tổng thống luôn là những người nổi bật nhất vì họ dễ được nhìn thấy, ngoài ra có thể đưa ra các phản ứng nhanh chóng với những phát biểu của “ông chủ” Nhà Trắng.
Theo Politico, tầm quan trọng biểu tượng từ thành công của bà Harris trong câu chuyện kéo dài nhiều thế kỷ của nước Mỹ là điều không thể phủ nhận. Các nhà phân tích cho đến các nhà hoạt động chống phân biệt chủng tộc đang chờ đợi cho sự thay đổi mang tính cách mạng về bình đẳng giới, chủng tộc và việc bà Harris sẽ mang đến “làn gió mới” cho nước Mỹ như thế nào.
Theo thông báo của Nhà Trắng, bà Harris sẽ thăm Singapore vào ngày 22/8 và đến Việt Nam ngày 24/8. Mục đích của chuyến đi là tăng cường quan hệ và mở rộng hợp tác kinh tế với hai đối tác quan trọng của Mỹ trong khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.
Bài: Chi Lan
Thiết kế: Hương Xuân
TT giảm te tua mấy mã HHT ôm có 2 mã CE, 2 mã xanh rì… Hôm nay HHT vẫn mua tiếp ( HHT không giải ngân 1 lần ngay đâu ạ).
Cảng biển, BDS khu CN phía Bắc mua dần ôm làm thức ăn gối đầu. HHT không chơi T+.
atg hoàng hôn cơ chưa
ATG em chưa có anh ạ. Định lên bao nhiêu CE anh?
hỏng bít,hết điên là té
Anh vào chưa ạ? Để em vào theo anh😊
Chuẩn bị lại sóng ngân hàng ạ!
IFC cấp vốn cho 6 ngân hàng, hỗ trợ gần 2.000 doanh nghiệp xuất nhập khẩu của Việt Nam trong năm tài khoá 2021
Thứ 2, 23/08/2021, 14:09
Với sự hỗ trợ của IFC, các ngân hàng đã phát hành 974 bảo lãnh với tổng giá trị 686 triệu đô-la Mỹ để hỗ trợ cho gần 2.000 nhà xuất khẩu và nhập khẩu.
IFC - thành viên của Nhóm Ngân hàng Thế giới thông báo gần 2.000 doanh nghiệp xuất nhập khẩu ở Việt Nam đã được hỗ trợ bởi chương trình tài trợ thương mại của IFC trong năm tài khóa 2021 – chương trình nhằm giúp các doanh nghiệp vượt qua giai đoạn COVID-19 và duy trì việc làm cho người lao động.
Trong bối cảnh gián đoạn sản xuất kinh doanh do đại dịch COVID-19 gây nên, kéo theo hạn chế về thanh khoản, trong 12 tháng qua, IFC đã thúc đẩy các hoạt động tài trợ thương mại và tài trợ chuỗi cung ứng nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là doanh nghiệp trong ngành dệt may và nông sản, tiếp tục hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa và duy trì việc làm.
Theo IFC, khả năng chống chịu của Việt Nam trước đại dịch COVID-19 trong năm 2020 đã giúp đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu trong khi doanh nghiệp ở hầu hết các quốc gia khác đã phải đối mặt với sự gián đoạn hoạt động kéo dài. Điều này đã giúp Việt Nam đạt thặng dư thương mại ở mức cao kỷ lục trong năm ngoái và duy trì việc làm cho người lao động. IFC đã ngay lập tức nâng cao hạn mức tài trợ thương mại cho các ngân hàng để đón đầu những thiếu hụt về tài trợ thương mại có thể xảy ra bởi đợt bùng phát đại dịch đầu tiên vào tháng 2/2020. Sang năm tài khóa 2021, IFC đã tiếp tục đẩy mạnh tài trợ thương mại tại Việt Nam nhằm hỗ trợ hoạt động xuất nhập khẩu để thúc đẩy quá trình hồi phục kinh tế hậu COVID-19.
Trong 12 tháng qua, Chương trình Tài trợ Thương mại Toàn cầu (GTFP) của IFC đã giúp sáu ngân hàng tại Việt Nam nâng cao năng lực đảm bảo rủi ro thanh toán trong tài trợ thương mại cho các doanh nghiệp trong nước, chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Với sự hỗ trợ của IFC, các ngân hàng đã phát hành 974 bảo lãnh với tổng giá trị 686 triệu đô-la Mỹ để hỗ trợ cho gần 2.000 nhà xuất khẩu và nhập khẩu.
Sáu ngân hàng bao gồm Ngân hàng TMCP An Bình, Ngân hàng TMCP Đông Nam Á, Ngân hàng TMCP Tiên Phong, Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam, Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam và Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh vượng.
"Đại dịch COVID-19 đã ảnh hưởng đến khả năng cung cấp giải pháp tài trợ thương mại của các ngân hang, đồng thời cũng làm hạn chế sự tiếp cận của khách hàng đối với các giải pháp này. Hỗ trợ của IFC đã cho phép VPBank mở rộng việc giãn lịch thanh toán cho thêm nhiều khách hàng hơn, đồng thời cấp các khoản tài trợ mới cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa bị ảnh hưởng bởi đại dịch. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho lưu chuyển hàng hóa xuyên biên giới được thông suốt, giúp giảm bớt khó khăn về thanh khoản," bà Võ Hằng Phương, Giám đốc Trung tâm Định chế Tài chính và Ngân hàng Giao dịch, VPBank cho biết.
Bên cạnh đó, IFC cũng cấp 418 triệu đô-la Mỹ cho các nhà cung cấp trong nước để duy trì thanh khoản khi đối tác mua hàng của họ yêu cầu gia hạn thời hạn thanh toán. Hỗ trợ này nằm trong khuôn khổ Chương trình Tài trợ Thương mại Chuỗi Cung ứng Toàn cầu của IFC để cấp vốn ngắn hạn cho các nhà cung cấp đang xuất khẩu hàng hóa cho bên mua quốc tế, bằng cách chiết khấu hóa đơn sau khi những hóa đơn này được bên mua chấp thuận.
Ông Hà Văn Tiến, Giám đốc Tài chính Công ty Cổ phần May Sơn Hà, một đối tác tham gia Chương trình Tài trợ Thương mại Chuỗi Cung ứng Toàn cầu của IFC, cho biết: "Cơ chế này của IFC giúp hỗ trợ các nhà cung cấp chuyển đổi các khoản phải thu thành tiền mặt ngay sau khi bên mua phê duyệt khoản phải thu. Điều đó đã giúp Sơn Hà nhận tiền thanh toán hóa đơn nhanh, giải quyết áp lực quay vòng vốn trong quản lý dòng tiền trong bối cảnh thương mại toàn cầu bị gián đoạn."
Nhu cầu về tài trợ chuỗi cung ứng đã tăng đột biến trong giai đoạn đại dịch khi các nhà cung cấp bị hạn chế về thanh khoản do gián đoạn chuỗi cung ứng. Nhằm ứng phó với tình trạng này, tổng tài trợ chuỗi cung ứng của IFC đã tăng thêm 28% trong năm tài chính 2021, giúp 31 doanh nghiệp may mặc và nông nghiệp duy trì hoạt động và đảm bảo hơn 100.000 việc làm.
“Cũng như trong các cuộc khủng hoảng trước đây, kinh nghiệm sâu rộng trên toàn cầu của IFC đã góp phần duy trì sự luân chuyển hàng hóa thông suốt - đóng vai trò quan trọng với hoạt động của doanh nghiệp - và ổn định việc làm tại Việt Nam trong giai đoạn đầu của đại dịch COVID-19. IFC sẽ tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp tích lũy vốn lưu động và tăng cường hoạt động thương mại khi chu kỳ sản xuất phục hồi và các nền kinh tế được tái thiết sau khủng hoảng”, bà Nathalie Louat, Giám đốc Toàn cầu Tài trợ Thương mại và Chuỗi cung ứng IFC chia sẻ.
Châu Cao
Doanh nghiệp & Tiếp thị
hô vào 1.6 dồi.Cái này bác dồng làm chứng.Ít nhất 5 té
Ngân hàng mà giảm lãi suất như thế này các doanh nghiệp lại có cơ tốt rồi!
“Ông lớn” ngân hàng đồng loạt giảm mạnh lãi suất cho vay, chỉ còn từ 4%/năm
Thứ 2, 23/08/2021, 16:18
Sau đợt giảm lãi suất vào giữa tháng 7/2021, mới đây các ngân hàng lớn tiếp tục giảm lãi suất và bổ sung gói tín dụng lãi suất ưu đãi hỗ trợ người dân và doanh nghiệp bị ảnh hưởng của dịch bệnh. Đợt hỗ trợ lần này tập trung ưu tiên các khách hàng tại các tỉnh, thành phía Nam đang thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16.
Đại diện VietinBank cho biết, bên cạnh các chính sách miễn giảm lãi suất cho vay và phí dịch vụ đang thực hiện nhằm hỗ trợ doanh nghiệp và người dân bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, ngân hàng tiếp tục triển khai bổ sung gói tín dụng ưu đãi lãi suất từ 4,0%/năm với quy mô 20.000 tỷ đồng đối với các khách hàng hoạt động trong ngành nghề, địa bàn bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi dịch bệnh, nâng tổng quy mô của tất cả các gói hỗ trợ lãi suất lên tới 150 nghìn tỷ đồng. Các ngành nghề bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi dịch được ưu tiên như: Dệt may, da giày, dược, vật tư y tế, thương mại phân phối, bán lẻ; lúa gạo, thủy sản, vật tư nông nghiệp; vận tải; hàng tiêu dùng thiết yếu…
Hiện nhà băng này có nhiều gói tín dụng nhằm hỗ trợ doanh nghiệp và người dân tiếp cận vay vốn với lãi suất chỉ từ 4,0%/năm đối với khoản vay ngắn hạn và 7,0%/năm đối với khoản vay trung dài hạn.
Trước đó, từ tháng 7/2021, trước diễn biến phức tạp của dịch bệnh, VietinBank đã thực hiện hỗ trợ giảm lãi suất cho vay lên tối đa 1,0%/năm đồng loạt đối với tất cả các khoản dư nợ hiện hữu của khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch bệnh.
Mới đây, Vietcombank cũng đã thông báo ngân hàng tiếp tục quyết định giảm lãi suất tiền vay trong thời gian từ 18/8/2021 đến hết 31/12/2021 đối với tất cả doanh nghiệp và cá nhân ảnh hưởng nặng nề bởi dịch COVID-19 tại 19 tỉnh, thành phố phía Nam hiện đang áp dụng giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch Covid.
Cụ thể, Vietcombank giảm lãi suất tới 0,5%/năm cho toàn bộ dư nợ vay của khách hàng tại Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bình Dương. Giảm lãi suất tới 0,3%/năm cho toàn bộ dư nợ vay của khách hàng tại các địa bàn tỉnh, thành phố phía Nam khác áp dụng giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ bao gồm Đồng Nai, Cần Thơ, Bình Phước, Tây Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Tiền Giang, Long An, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Bến Tre, Hậu Giang, An Giang, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Cà Mau, Kiên Giang.
Ngân hàng lưu ý, việc giảm lãi suất trên không áp dụng với các khoản vay chứng khoán, vay kinh doanh bất động sản, vay cầm cố giấy tờ có giá…
Đặc biệt, nếu đáp ứng điều kiện, các khách hàng đã được giảm lãi suất theo Chính sách hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 giai đoạn 3 của Vietcombank triển khai ngày 15/07/2021 sẽ được tiếp tục giảm thêm lãi suất theo Chính sách hỗ trợ lần này.
Song song với đó, Vietcombank sẽ tiếp tục triển khai nhiều chương trình cho vay lãi suất thấp đối với các khoản vay mới nhằm hỗ trợ khách hàng trên địa bàn tỉnh, thành phố phía Nam vượt qua giai đoạn khó khăn từ nay đến cuối năm.
BIDV cũng công bố dành 1.000 tỷ đồng hỗ trợ lãi suất cho vay các doanh nghiệp tại 19 tỉnh, thành phía Nam. Theo đó, từ nay đến hết 31/12/2021, BIDV giảm lãi suất cho vay đối với dư nợ hiện hữu đồng thời triển khai các gói vay mới với lãi suất thấp dành cho khách hàng doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của dịch Covid-19 tại 19 tỉnh/thành đang thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16 của Chính phủ.
Theo đó, BIDV thực hiện giảm 0,5 - 1,5%/năm lãi suất cho vay VND đối với dư nợ hiện hữu phát sinh đến ngày 15/7/2021 đối với các doanh nghiệp có hoạt động sản xuất kinh doanh gặp khó khăn do tác động của dịch Covid-19. Mức giảm tối đa dành cho các khoản vay chịu ảnh hưởng nặng trong các lĩnh vực như giao thông, vận tải, y tế, giáo dục, dịch vụ lưu trú, dịch vụ nhà hàng, khách sạn, resort…… Ngân sách BIDV dành hỗ trợ đối với dư nợ hiện hữu, áp dụng cho tất cả các kỳ hạn, lên đến 800 tỷ đồng.
Đặc biệt, các khách hàng đã từng được áp dụng các chính sách lãi suất cho vay ưu đãi khác vẫn tiếp tục được BIDV hỗ trợ trong chương trình này.
Ngoài ra, BIDV triển khai gói tín dụng mới với quy mô 30.000 tỷ đồng, áp dụng cho các khoản vay ngắn hạn có thời gian vay tối đa 12 tháng, với mức giảm lãi suất lên đến 1,5%/năm so với lãi suất thông thường. Dự kiến, nguồn lực hỗ trợ đối với gói tín dụng này vào khoảng 200 tỷ đồng.
Bên cạnh các ngân hàng lớn, trước đó, hàng loạt ngân hàng tư nhân cũng đã nhập cuộc giảm mạnh lãi suất để hỗ trợ khách hàng.
Sacombank đã triển khai nguồn vốn ưu đãi 10.000 tỷ đồng với lãi suất từ 4%/năm, thời hạn vay tối đa 6 tháng dành cho doanh nghiệp xuất khẩu cũng như hỗ trợ các doanh nghiệp khắc phục khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Thời gian áp dụng từ ngày 18/6/2021 đến hết ngày 31/12/2021 hoặc khi hết nguồn tùy điều kiện nào đến trước.
Kienlongbank thì cho biết tất cả khách hàng đang quan hệ tín dụng tại Kienlongbank bị ảnh hưởng trực tiếp/gián tiếp bởi dịch Covid–19 và thỏa mãn các điều kiện của chương trình, sẽ được giảm tối đa 1,5%/năm lãi suất vay. Tùy theo mục đích và nhu cầu vay vốn, khách hàng của Kienlongbank còn được hưởng chính sách lãi suất ưu đãi khác. Chương trình áp dụng từ ngày 10/8/2021 và kết thúc khi thực hiện hoàn tất chương trình và/hoặc chấm dứt trước hạn theo thông báo của Kienlongbank.
HDBank hồi giữa tháng 7 giảm lãi suất cho vay bình quân 1%/năm và cao nhất lên đến 2%/ năm đối với các doanh nghiệp và cá nhân hoạt động ở các lĩnh vực chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi dịch Covid-19. Từ 15/7, ACB giảm lãi suất cho các khách hàng hiện hữu với mức tối đa 0,8%/năm cho khoản vay ngắn hạn và 1%/năm cho khoản vay trung dài hạn,…
Thu Thuỷ
Doanh nghiệp & Tiếp thị
SSI: Lãi suất cho vay sẽ giảm trong ngắn hạn, lãi suất huy động đi ngang
Thứ 2, 23/08/2021, 20:04
Tuần qua, lãi suất liên ngân hàng tuần qua giảm nhẹ 0,03 đến 0,05 điểm %, kết tuần ở 0,84%/năm cho kỳ hạn qua đêm và 1,01%/năm cho kỳ hạn một tuần.
Bộ phận Phân tích Chứng khoán SSI (SSI Research) vừa có báo cáo cập nhật thị trường tiền tệ tuần qua (16-20/8).
Tuần qua, thị trường mở không phát sinh giao dịch mới và các hợp đồng bán ngoại tệ kỳ hạn tiếp tục được thực hiện giúp nguồn cung VND được cải thiện. Lãi suất liên ngân hàng tuần qua giảm nhẹ 0,03 đến 0,05 điểm %, kết tuần ở 0,84%/năm cho kỳ hạn qua đêm và 1,01%/năm cho kỳ hạn một tuần.
Trước khó khăn của các doanh nghiệp và người dân do ảnh hưởng bởi dịch bệnh, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành công văn về việc thực hiện giảm lãi suất cho vay và miễn phí dịch vụ ngân hàng. Theo đó, NHNN sẽ tăng cường giám sát việc thực hiện các cam kết giảm lãi suất một cách thực chất.
Trên cơ sở đó, NHNN sẽ xem xét và có chính sách khuyến khích hoặc hạn chế một số nội dung trong hoạt động tín dụng của ngân hàng trong năm 2022.
Trong tuần qua, Vietcombank và BIDV cũng đã công bố thêm gói hỗ trợ lãi suất trị giá 1.000 tỷ đồng mỗi ngân hàng dành cho các khách hàng và doanh nghiệp cho 19 tỉnh thành ở phía Nam với mức giảm từ 0,3 – 1,5%.
SSI Research kỳ vọng mặt bằng lãi suất cho vay sẽ giảm nhẹ trong ngắn hạn, trong khi lãi suất huy động sẽ không có nhiều biến động.
Trên thị trường ngoại hối, tỷ giá USD/VND tiếp tục trong xu hướng giảm trên cả hai thị trường.
Cụ thể, tỷ giá USD/VND niêm yết của các ngân hàng thương mại đã giảm 15 đồng/USD ở cả 2 chiều, xuống mua - bán mức 22.685 - 22.915 đồng/USD. Tỷ giá tự do điều chỉnh tương đối mạnh, giảm 75 đồng/USD ở chiều mua vào và 65 đồng/USD chiều bán ra, xuống giao dịch ở mức 23.050 - 23.170 đồng/USD/
Cán cân thương mại hàng hóa nhập siêu 1,36 tỷ USD trong nửa đầu tháng 8/2021, lũy kế nhập siêu 3,88 tỷ USD và được bù đắp bởi dòng vốn đầu tư FDI và kiều hối giúp cán cân thanh toán tổng thể vẫn tương đối cân bằng.
Trong thời gian tới, SSI Research đánh giá khả năng kiểm soát của dịch bệnh sẽ là tín hiệu quan trọng để có thể thu hút dòng vốn FDI. Nhìn chung, VND vẫn được kỳ vọng là đồng tiền có diễn biến tốt trong khu vực, trong bối cảnh đồng USD được đánh giá sẽ mạnh lên về cuối năm.
Thu Thuỷ
Ở nước ngoài thì những đơn vị sxkd mới có sóng Ở VN ngân hàng hút máu nhiều thì ngân hàng mới có sóng.Giá cho vay 4% vẫn cao so với thế giới,nhưng về nhìn chung là dễ thở với doanh nghiệp so với mức 10-12% rồi.Giờ ai cũng dùng điện thoại thông minh cả rồi,ai cũng biết thông tin hết.
Mua ATG ạ? Hihi, em đua mua từ 0.8 xong bán mất rồi.
Nhất là dn bất động sản em nhỉ?
tóm cái váy lại là tiền sẽ phải bung ra.Còn tất nhiên lợi thế sẽ là doanh nghiệp khi được vay dòng vốn rẻ.Với lại bg sẽ là dòng vốn đầu tư công thì ai hưởng lợi.Giá vật liệu tăng,ông nhà thầu thì ko thích rồi.Chốt lại là vlxd