[Kinh tế học vĩ mô - Bài 3] SẢN XUẤT VÀ TĂNG TRƯỞNG

Thu nhập bình quân phản ánh trực tiếp mức sống của công dân quốc gia đó. Có sự khác chênh lệch thu nhập rất lớn giữa các quốc gia. Thu nhập bình quân ở các nước giàu như Mỹ, Nhật Bản, Đức hiện cao gấp hơn 10 lần so với các nước trung bình thấp như Ấn Độ, Nigeria. Với Việt Nam, con số chênh lệch cũng không nhỏ: thu nhập bình quân của Mỹ cao hơn Việt Nam khoảng 10 lần, và Nhật Bản khoảng 6 lần.

Trong 20 năm trở lại đây, một số quốc gia Đông Á như Singapore, Hàn Quốc đã đạt mức tăng trưởng kinh tế trung bình khoảng 7%/năm – và ở tốc độ này, thu nhập bình quân có thể tăng gấp đôi chỉ sau 10 năm. Một quốc gia trải qua sự tăng trưởng nhanh chóng như vậy có thể đi từ một quốc gia còn nghèo vươn lên trở thành một trong những quốc gia giàu nhất. Con số tăng trưởng kinh tế 7%/năm này khá quen, vì nó ngang bằng với tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam những năm gần đây. Với những nền kinh tế đã đạt đến quy mô lớn, tốc độ tăng trưởng chậm lại, còn Việt Nam với quy mô trung bình như hiện tại đang có dư địa tăng trưởng lớn. Dư địa này xuất phát từ những cơ chế và nguyên lý kinh tế vĩ mô nào, bài viết này nhằm cung cấp cơ sở lý thuyết để bạn có thể tự suy ngẫm và hình thành góc nhìn tổng quát về dư địa phát triển kinh tế cho Việt Nam trong 10–20 năm tới.

TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TRÊN TOÀN THẾ GIỚI

Hãy luôn nhớ một yếu tố sau xuyên suốt bài viết: Thu nhập bình quân đầu người tương ứng với mức sống của người dân quốc gia đó. Mức sống của một quốc gia được quyết định bởi năng suất lao động của công dân trong một quốc gia đó.

Bảng dữ liệu về GDP thực bình quân đầu người của một số quốc gia:

Quốc gia Giai đoạn GDP thực bình quân đầu người đầu giai đoạn GDP thực bình quân đầu người tại năm 2020 Mức tăng Tăng trưởng hàng năm (%)
Mỹ 1945 - 2020 12.500 63.000 5 lần 2.18
Anh 1945 - 2020 10.000 47.000 4,7 lần 2.08
Nhật Bản 1950 - 2020 2.700 43.000 15,9 lần 4.03
Hàn Quốc 1960 -2020 1.000 32.000 32 lần 5.95
Trung Quốc 1978 - 2020 800 16.000 20 lần 7.39
Argentina 1950 - 2020 5.100 10.000 2 lần 0.97
Việt Nam 1990 - 2020 500 3.500 7 lần 6.70

Nhật BảnHàn Quốc là hai con rồng châu Á đã rất thành công. Nhật Bản có tốc độ tăng trưởng 4%/năm từ năm 1950 – đưa GDP/người từ 2.700 USD lên tới 43.000 USD. Hàn Quốc còn có tốc độ tăng trưởng ấn tượng hơn, từ chỉ 1.000 USD (1960) lên tới 32.000 USD, với tốc độ tăng trưởng gần 6%/năm. Trung Quốc với tốc độ gần trong 42 năm sau cải cách đã tăng mức GDP của mình hơn 20 lần, từ một quốc gia nông nghiệp thuần túy đã trở thành công xưởng của thế giới, tạo ra một tầng lớp trung lưu đông đảo sau một thế hệ.

Argentina từng là một trong những quốc gia giàu nhất thế giới vào đầu thế kỷ 20, nhưng suốt 70 năm qua, thu nhập bình quân đầu người của nước này chỉ tăng gấp đôi, với tốc độ tăng trưởng trung bình vỏn vẹn 0,97% mỗi năm. Trường hợp của Aghentina là một lời cảnh tỉnh rõ ràng giàu có trong quá khứ không bảo đảm chắc chắn cho sự thịnh vượng trong tương lai.

Giữa các quốc gia có sự khác biệt về tốc độ tăng trưởng, vì vậy xếp hạng các quốc gia theo thu nhập thay đổi đáng kể theo thời gian. Các quốc gia giàu nhất thế giới không có sự đảm bảo là quốc gia này sẽ tiếp tục là quốc gia giàu nhất và các quốc gia nghèo nhất không cam chịu mãi cảnh nghèo đói. Vậy điều gì thúc đẩy một quốc gia top dưới vươn lên phía trước, còn một số quốc gia khác thì lại thụt lùi?

Ý NGHĨA CỦA NĂNG SUẤT VÀ CÁC YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH NĂNG SUẤT
Định nghĩa năng suất: Năng suất là số lượng hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra từ mỗi đơn vị nhập lượng lao động. Sau nhiều năm miệt mài thực hiện các nghiên cứu, các nhà kinh tế học đã thống nhất rằng: năng suất là yếu tố cốt lõi quyết định mức sốngtăng trưởng năng suất là yếu tố quyết định chủ yếu sự tăng trưởng của mức sống trong dài hạn.

Một trong mười nguyên lí của kinh tế học cũng đã chỉ ra rõ rằng:

Mức sống của một quốc gia phụ thuộc vào khả năng sản xuất hàng hóa và dịch vụ của quốc gia đó.

Trong kinh tế học vĩ mô, năng lực này được mô tả thông qua hàm sản xuất, cho thấy sản lượng của một nền kinh tế phụ thuộc vào các đầu vào chính như vốn, lao động, công nghệ và tổ chức sản xuất. Cùng tìm hiểu 4 yếu tố chính quyết định năng suất:

1. Vốn vật chất (Physical Capital)

Đây là máy móc, công cụ, nhà xưởng, hạ tầng… mà người lao động sử dụng để tạo ra sản phẩm.
Ví dụ: một công nhân dùng máy khoan điện có thể khoan 100 lỗ trong một giờ, còn người dùng tay khoan thủ công chỉ làm được 10 lỗ. Nhiều quốc gia nghèo có năng suất thấp vì thiếu vốn vật chất hiện đại.

2. Vốn con người (Human Capital)

Chính là trình độ học vấn, kỹ năng và sức khỏe của người lao động. Đầu tư vào giáo dục, đào tạo nghề, y tế… chính là đầu tư vào năng suất quốc gia.
Ví dụ: một người thợ may lành nghề có thể may hoàn chỉnh một chiếc áo chỉ trong một giờ với chất lượng đồng đều, trong khi một người mới vào nghề phải mất cả buổi và vẫn có thể làm hỏng sản phẩm.

3. Tài nguyên thiên nhiên (Natural Resources)

Bao gồm đất đai, khoáng sản, nước ngọt, rừng, biển… phục vụ sản xuất.
Ví dụ: Qatar giàu vì có trữ lượng dầu khí khổng lồ. Tuy nhiên mặc dù tài nguyên thiên nhiên là quan trọng nhưng nó không phải là một yếu tố tiên quyết trong việc quyết định một nền kinh tế có năng suất cao, ví dụ như Singapore chẳng hạn, là một đất nước có rất ít tài nguyên thiên nhiên, Singapore sau đó nhập khẩu nhiều tài nguyên thiên nhiên mà họ cần.

4. Kiến thức công nghệ (Technological Knowledge)

Là cách thức thông minh hơn để kết hợp các yếu tố sản xuất – tức là cách làm tốt hơn, nhanh hơn, hiệu quả hơn.
Ví dụ: nhờ công nghệ điện toán đám mây, một công ty có thể xử lý dữ liệu cho hàng triệu khách hàng thay vì hàng trăm.

Vậy nếu năng suất là nền tảng của tăng trưởng dài hạn, thì câu hỏi đặt ra là: làm thế nào để một quốc gia cải thiện năng suất? Câu trả lời nằm ở các chính sách kinh tế vĩ mô, nơi chính phủ có thể chủ động tác động đến tốc độ tăng trưởng thông qua nhiều phương thức khác nhau.

CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

Các chính sách của chính phủ ảnh hưởng đến tỷ lệ tăng trưởng của nền kinh tế theo nhiều cách khác nhau thông qua khuyến khích tiết kiệm và đầu tư, khuyến khích đầu tư nước ngoài, tài trợ giáo dục - y tế, ổn định chính trị, khuyến khích thương mại tự do và thúc đẩy việc nghiên cứu phát triển công nghệ.

1. Tiết kiệm và đầu tư

Một trong mười nguyên lí của kinh tế học:

Con người đối diện với sự đánh đổi.

Nguyên lí này cũng đúng với sự tích lũy vốn. Đối với xã hội, để có thêm máy móc, thiết bị, cơ sở hạ tầng… thì trong ngắn hạn, xã hội phải tiết kiệm nguồn lực giới hạn của mình, tương đương với việc bớt sản xuất hàng hóa tiêu dùng để dành nguồn lực giới hạn của mình đầu tư vào vốn sản xuất (máy móc, thiết bị). Tức là phải tạm thời hy sinh một phần mức sống hiện tại để đổi lấy mức sống cao hơn trong tương lai.

2. Đầu tư nước ngoài

Khi một quốc gia chưa đủ nguồn lực trong nước để đầu tư cho sản xuất, công nghệ và hạ tầng, thì dòng vốn nước ngoài có thể đóng vai trò như một đòn bẩy mạnh mẽ. Các hình thức như FDI (đầu tư trực tiếp) không chỉ mang lại tiền vốn, mà còn đi kèm theo công nghệ, kỹ năng quản lý và cơ hội tiếp cận thị trường toàn cầu.

3. Giáo dục, sức khỏe và dinh dưỡng

Một nền kinh tế chỉ mạnh khi người lao động khỏe mạnh, có kiến thức và kỹ năng. Chính phủ đầu tư vào giáo dục, y tế, dinh dưỡng là đang đầu tư vào vốn con người, là yếu tố then chốt cho năng suất dài hạn.

4. Quyền sở hữu và ổn định chính trị

Không ai muốn cố gắng làm việc rồi nhìn thành quả của mình bị cướp mất cả. Bảo vệ quyền sở hữu tài sản, duy trì tính minh bạch và ổn định chính trị là điều kiện cần để thúc đẩy nền kinh tế, đồng thời giúp các doanh nghiệp yên tâm kinh doanh.

5. Thương mại tự do

Khi một quốc gia mở cửa thương mại, tổng thặng dư (lợi ích) của xã hội là lớn nhất. Mình có đề cập ở đây. [Kinh tế vĩ mô] Tự do thương mại - Phần 1 - Vĩ mô - F247.COM

6. Nghiên cứu và Phát triển công nghệ

Trong vòng vài chục năm trở lại đây, công nghệ và đổi mới sáng tạo là yếu tố có tác động mạnh mẽ nhất đối với năng suất.

Nhìn chung, 6 chính sách trên đều hướng tới một mục tiêu chung là nâng cao năng suất nhằm thúc đẩy tăng trưởng. Tuy nhiên, dù áp dụng đúng chính sách, tăng trưởng vẫn không thể kéo dài mãi theo một đường thẳng.

SINH LỢI GIẢM DẦN VÀ HIỆU ỨNG ĐUỔI KỊP

Trong kinh tế học, có một nguyên lý quan trọng gọi là sinh lợi giảm dần. Điều này có nghĩa là: khi một nền kinh tế đã có quá nhiều vốn (máy móc, nhà xưởng…), thì mỗi đơn vị vốn bổ sung thêm sẽ tạo ra ít sản lượng hơn. Càng giàu, đầu tư thêm càng ít hiệu quả. Vì vậy, khi một quốc gia tiết kiệm và đầu tư nhiều, tăng trưởng sẽ nhanh trong giai đoạn đầu, nhưng sau đó sẽ chậm dần khi vốn tích lũy đã lớn, năng suất đạt ngưỡng và thu nhập cao lên. Đó là lý do vì sao các nền kinh tế phát triển như Mỹ và Anh – dù có nền tảng vốn rất lớn – lại chỉ tăng thu nhập khoảng 5 lần trong suốt 75 năm (tốc độ tăng trưởng ~2%/năm).

Ngược lại, ở các quốc gia nghèo – nơi vốn còn rất hạn chế – mỗi đồng vốn đầu tư mang lại lợi ích lớn hơn rất nhiều. Đây chính là điều tạo ra cái gọi là hiệu ứng đuổi kịp (Catch-up effect): các quốc gia nghèo có thể tăng trưởng nhanh hơn và bắt kịp các quốc gia giàu nếu các yếu tố khác như thể chế, chính sách và giáo dục được đảm bảo.

Ví dụ điển hình là Việt Nam, với mức thu nhập chỉ khoảng 500 USD/người vào năm 1990, nhưng đã tăng lên 3.500 USD vào năm 2020tức tăng gấp 7 lần chỉ trong 30 năm, nhờ tận dụng tốt hiệu quả đầu tư và hội nhập toàn cầu. Nghèo không phải là tuyệt vọng, mà đôi khi còn là một “Lợi thế ngược”.

Cuối cùng thì, sự xuất hiện của Trí tuệ nhân tạo (AI) trong vài năm trở lại đây mang lại sự thay đổi đáng kinh ngạc trong năng suất. Vậy Việt Nam với LỢI THẾ quy mô kinh tế còn nhỏ, có thể tận dụng cơ hội này để cải thiện nhanh chóng mức sống của mình hay không? Trong khi mà các quốc gia phát triển đang chịu giới hạn của hiệu ứng sinh lợi giảm dần. Anh em cùng suy nghĩ thử. Cảm ơn mọi người đã đọc tới đây.