FDI, VỐN NGOẠI TRÊN TTCK, VẤN ĐỀ BẤT ĐỘNG SẢN, VÀI TẢN MẠN VỀ NỀN KINH TẾ.
Sau bài các kỹ thuật căn bản rút ruột cổ đông tại: https://f247.com/t/1-so-ky-thuat-can-ban-rut-ruot-co-dong-viet-carlo-2/808929, nay xin gửi đến quý vị vài tản mạnh nhỏ:
Tôi mong muốn viết thành 1 bức tranh tổng hợp hơn nhưng chưa đủ trình độ cũng như thời gian, công sức, mong quý vị bỏ qua.
3 yếu tố chính để thu hút FDI:
-
Các yếu tố địa lý, hạ tầng: vị trí kết nối các tuyến hàng hóa lớn, có bờ biển lớn để tăng hiệu quả vận chuyển hàng hóa, có hệ thống hạ tầng (cảng, đường cao tốc, điện nước internet) để giảm chi phí logistics vận hành.
-
Các yếu tố vị thế chính trị và an ninh: Thân thiện hiếu khách cởi mở, tránh cực đoan mất an ninh gây các hệ lụy như bạo động, tịch thu sung công, bắt cóc tống tiền, làn sóng bài trừ phương tây như đã có ở Trung Quốc, Trung Đông, Nam Mỹ v.v…
-
Các yếu tố lao động: Có mức lương và thu nhập đầu người chưa cao + kỹ năng tương đối tốt, nếu quốc gia chỉ có lao động rẻ thiếu kỹ năng (vd châu Phi), vốn ngoại vào sẽ dư thừa, nếu quốc gia chỉ có kỹ năng nhưng chi phí lương đắt đỏ (nhật hàn, EU, Mỹ), vốn ngoại vào không đạt lợi nhuận cao
Riêng với thị trường chứng khoán của việt nam, để thu hút thêm là cả 1 chặng đường và nhiều việc cần làm, theo quan sát, mình thấy có vài điểm như sau. Các yếu tố chính để thu hút FII (tập trung nói về thị trường chứng khoán):
- Hệ thống pháp lý phải chặt chẽ và đủ sức bảo vệ người dân/nhà đầu tư, đây là điểm yếu nhất, cốt tử của mọi ngành nghề ở VN:
-
- Quy định và giám sát việc thành lập doanh nghiệp, góp vốn mua cổ phần (như chứng minh tài sản, loại tài sản được góp) cần chặt chẽ tránh tình trạng tăng vốn ảo/doanh nghiệp ma tràn lan như hiện nay
-
- Việc quản lý của các cơ quan quản lý TTCK như ủy ban chứng khoán, sở giao dịch ck Việt Nam cần nâng cao và quy trách nhiệm nhiều hơn nữa trong việc để các doanh nghiệp rỗng niêm yết tràn lan trên sàn như hiện nay, nâng cao việc giám sát của các bên liên quan trong quy trình đưa 1 công ty đại chúng lên sàn hoặc tăng vốn, như các công ty chứng khoán đóng vai trò tư vấn dịch vụ và giám sát chung, công ty kiểm toán thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính, các ngân hàng quản lý tài khoản niêm phong và giám sát việc nhận tiền mua cổ phiếu từ cổ đông, các công ty thẩm định giá tài sản đảm bảo cho việc phát hành trái phiếu, để tránh tình trạng thuê người đứng tên cổ phần, tăng vốn ảo thông qua nạp rút số tiền nhỏ nhiều lần, dùng tài sản ảo ở những công ty ma trong hệ sinh thái để phát hành trái phiếu ra công chúng thu tiền, chuyển khoản lắt léo qua nhiều người để rút tiền công ty ra, hòng cắt đuôi cơ quan điều tra.
-
- Các quy định làm căn cứ cho việc truy tố hình sự tội thao túng thị trường chứng khoán cần phải rõ ràng được việc hơn, tránh tình trạng 100 vụ phát hiện thao túng mà chỉ truy tố 5% 10% số đó như hiện nay, chủ yếu vì thiếu căn cứ xác định số lợi thu bất chính của các đối tượng (Nhìn các vụ APG, DAH, C69, PSH chỉ phạt hành chính).
- Cơ cấu hàng hóa trên TTCK cần phải đa dạng và có tính đại diện tốt cho nền kinh tế: Hiện nay VN30 được coi là chỉ số 30 công ty phản ánh bộ mặt và có tác động đáng kể đến nền kinh tế VN, tuy nhiên trong đó đa số là ngân hàng và công ty bất động sản.
-
Tất cả các ngành nghề còn lại đều rất mờ nhạt và gồm ít cổ phiếu hoặc các cổ phiếu lờ đờ như zombie, ví dụ: Viễn thông công nghệ, bán lẻ, dịch vụ (khách sạn, taxi, chuỗi cửa hàng ăn uống, công viên giải trí, du lịch…).
-
điển hình như du lịch hầu hết là trên upcom (chưa niêm yết), 1 phần vì thực trạng lấn át của khối bất động trong việc cạnh tranh nguồn tiết kiệm của dân với các ngành khác, 1 phần vì ngành này và vài ngành dịch vụ vốn không thâm dụng vốn nhiều như các ngành nên ko cần niêm yết
-
- Ngay cả trên thị trường trái phiếu, bất động sản và ngân hàng chiếm số đông. Thực ra, không phải do chỉ số chưa phản ánh kinh tế thực, mà là vì kinh tế thực của chúng ta cũng như vậy. Chuỗi giá trị thiên quá nhiều về cặp đôi lợi ích Bất động sản – Bank.
. Trong 1 nền kinh tế khi chế độ đất đai sở hữu toàn dân nhà nước quản lý, giá cả bds cực dễ bị ảnh hưởng bởi chính sách quy hoạch nhất là những vùng thơm, tính đầu cơ cực cao do thiếu vắng minh bạch, các chính sách siết thuế đầu cơ chưa có như TQ, dễ thấy lợi nhuận BDS vượt xa sxkd bình thường.
-
Cũng trong nền kinh tế đó, thị trường chứng khoán thiếu vắng hàng hóa, thanh khoản thấp, tỷ lệ dân số tham gia thấp do thiếu niềm tin, thị trường trái phiếu với những quy định chưa hiệu quả đủ bảo vệ nhà đầu tư, kiến thức NDT về tài chính còn thấp, thì kênh tín dụng từ ngân hàng vẫn là chủ đạo để cấp vốn cho doanh nghiệp.
-
Tuy nhiên vì quan hệ liên minh ma quỷ với các tập đoàn bất động sản từ lâu, 1 phần lớn tín dụng không đến được những DN có nhu cầu tạo ra hàng hóa dịch vụ thật sự cho VN, khoảng 70% doanh nghiệp vừa và nhỏ rất khó khăn trong việc tiếp cận tín dụng ngân hàng. Vị thế nhân viên ngân hàng trở nên rất sang chảnh so với thu nhập chung và số lượng ngân hàng áp đảo trên TTCK vì nhiều yếu tố đa dạng.
- Các doanh nghiệp trong các ngành còn lại ít lên sàn vì vài lí do:
-
- Là bản thân họ từ trước đến nay có mức độ tuân thủ kém (1 điều phổ biến trong văn hóa DNTN VN), họ không muốn phơi mình trước các quy định công bố thông tin của công ty đại chúng
-
- Là thói quen đầu tư kinh doanh hời hợt ở VN, các doanh nghiệp nội địa đa số làm hạ nguồn, nhập khẩu linh kiện để lắp hoặc nguyên chiếc, mô hình kinh doanh dựa trên thâm dụng lao động hơn là vốn và công nghệ, và thói quen khi đã đủ bán đi mua đất hoặc nhà cho thuê, trục giá trị ít có tầm nhìn dài hạn và chiều sâu, họ không cần quá nhiều vốn mà phải lên sàn, nhất là khi kinh tế thực ngoài đời, khối bất động sản cũng lấn át các ngành chứ ko riêng gì trên sàn, làm giảm đáng kể động lực chủ doanh nghiệp.
- Vì vậy có thể nói, để VN30 hay thị trường trái phiếu phản ánh đa dạng hơn, cốt lõi là cần phải dịch chuyển chuỗi giá trị trong kinh tế thật, bằng các chính sách dẫn đầu của nhà nước, kích thích start up, minh bạch hóa thông tin BDS, siết thuế với việc đầu cơ quá mức đẩy chỉ số giá nhà lên tới 40 năm thu nhập (top of the world), các chính sách đầu tư cho giáo dục và tri thức của thế hệ tiếp theo, chấn chỉnh sự bát nháo hiện nay dưới mái các nhà trường, và nhiều loại chính sách khác mà NN phải đóng vai trò làm gương từ trên xuống. Mục tiêu cắt đứt các hệ lụy tiềm thức mà khối u bất động sản đang chiếm quá nhiều lực và tiết kiệm trong dân để dành vào đầu tư hòng đạt đến trạng thái cân bằng hơn, nâng năng suất của người lao động, của vốn doanh nghiệp và của công nghệ chung trong nền kt lên.
- Các thị trường tài chính song hành với cổ phiếu như trái phiếu, hàng hóa, phái sinh, chứng quyền, cần phải được đẩy mạnh hơn tạo đồ chơi cho nhà đầu tư nước ngoài. Đây là yếu tố phụ, cốt yếu là văn hóa và năng suất trong nền kinh tế cần phải nâng cao, thì tự nhiên các thị trường tài chính sẽ phong phú theo để đáp ứng nhu cầu đầu tư toàn xã hội vào các lĩnh vực mà trước nay bị key words bất động sản lấn át (hiệu ứng crowding out về vốn)
Từ những luận điểm trên, có thể thấy nổi lên key word như “năng suất (của con người, của vốn doanh nghiệp)” hay “bất động sản” “lấn át, chiếm vốn” v.v…Trong bối cảnh Việt nam chỉ còn tỷ lệ sinh trên 1 phụ nữ (2024) là 1.9 trong khi tỷ lệ duy trì là 2.1, sự hy vọng vào tăng trưởng gdp dựa vào tổng dân số tăng mạnh và cơ cấu dân số vàng là ko còn thực tế.
Về cơ bản có 3 yếu tố để tạo ra sản lượng GDP cao hơn, là năng suất x lượng vốn đầu tư (hạ tầng, nhà máy, điện đường trường trạm) x số lao động, hiện yếu tố 3 đã phế.
-
chính phủ vẫn đang đẩy mạnh lượng vốn thông qua thu xếp vốn bằng nhiều nguồn để đầu tư công, hoàn thiện về hạ tầng giao thông, bổ sung điện, cảng biển. Nhưng xu hướng chính của các nền kinh tế đã từng rơi khỏi ngưỡng 2 con trên 1 phụ nữ như Nhật Bản (năm 1980) và Trung Quốc (năm 2000), là phải nâng năng suất, đến 1 điểm nào đó (khả năng tới 2030 - 2035), việc tiếp tục tăng GDP dựa vào tăng lượng vốn sẽ bị bão hòa (giảm dần năng suất biên của vốn)
-
thực ra các hành động gần đây như thúc đẩy chuyển đổi số, cải cách pháp lý và thu gọn biên chế cơ quan hành chính, giảm học phí tăng đầu tư cho giáo dục, hầu hết là để tăng năng suất (công nghệ), 1 mặt khác là hòng đối phó với già hóa lực lượng lao động.
Tuy nhiên có 2 điều ở đây chưa đủ, 1 điều thậm chí mâu thuẫn:
- 1 là. 100% các nước đã lâm vào già hóa dân số trong 30 40 năm qua như NHật, hàn, China, EU, Mỹ v.v…đều sẽ tiếp tục giảm mạnh tỷ lệ sinh trên 1 phụ nữ, từ thời điểm tỷ lệ sinh này giảm xuống đến khi dân số đạt đỉnh thường chỉ trong vòng từ 10 đến 20 năm, đó là 1 xu hướng ko thể đảo ngược.
Ở Nhật hay EU, lãi suất được hạ xuống 0 thậm chí âm trong nhiều năm để kích thích tiêu dùng, đầu tư, sinh đẻ cùng nhiều gói tài khóa hỗ trợ học phí toàn diện, thậm chí thưởng, nhưng tác động lên dân số và thói quen cưới hỏi sinh đẻ rất hạn chế
=> Những hành động như giảm học phí chỉ là 1 trong số đó, và thời điểm này không phải là sớm sủa gì, độ mạnh và độ nhanh cần gấp vài lần thế này.
- 2 là. FDI vào VN chủ yếu để hưởng 1. chi phí lương thấp hơn 2. Các hàng rào về bảo vệ môi trường xử lý nc thải, không khí thấp hơn, 3. Các hàng rào bảo vệ quyền lợi người lao động thấp hơn, vai trò của công đoàn ko dc phát huy nhiều và quan trọng nhất 4. Chi phí thuê đất dài hạn rẻ hơn tương đối.
Hiện nay 1 trong những mấu chốt để thế hệ tiếp theo có đủ động lực lao động, tránh tình trạng chảy máu lao động ra nước ngoài (trầm trọng thêm già hóa) là chỉ số giá nhà trên thu nhập phải ở mức hợp lý và nên giảm từ bây giờ, tránh tình trạng vỡ bong bóng bất động sản (1 tình trạng khi giá nhà vượt xa nhu cầu và thu nhập thực) đã có vào năm 1991 ở Nhật hay các năm gần đây ở Trung Quốc.
- Và mấu chốt để thu hút FDI cũng như nâng cao năng suất quốc gia nằm ở từ khóa giảm chi phí thuê đất, hãy nhìn tình trạng trả mặt bằng hàng loạt ở HN, TPHCM và rút ròng mỗi ngày 1k tỷ của vốn FII trên thị trường tài chính và nghĩ xem có 1 mối liên hệ nào mà các dòng vốn đó đã nhìn thấy ở sự suy giảm năng suất của cải tạo ra vì chi phí BDS ăn quá nhiều vào tiết kiệm cũng như thu nhập kinh doanh.
Thế nhưng, trái lại, mặt bằng giá đất hiện nay ở nhiều nơi lên cao hơn và chạm ngưỡng chịu đựng, vốn tiết kiệm tiếp tục đổ vào BDS ngày 1 nhiều hơn. Giá tư liệu sản xuất như đất tăng cao làm giảm rất nhiều năng suất lao động của tài sản cố định doanh nghiệp cũng như của người lao động.
https://www.facebook.com/groups/chungkhoanvietcarlo